Tuyển tập thơ Nguyễn Khuyến hay nhất mọi thời đại

Thơ Nguyễn Khuyến mang phong cách riêng, vừa nhẹ nhàng mát mẻ vừa đậm chất trào phúng khiến người đọc say mê. Trong suốt sự nghiệp sáng tác ông đã để lại vô vàn tác phẩm hay xuất sắc. Cùng Tuyên Giáo Thủ Đô điểm qua một số bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Khuyến ngay sau đây.

Những bài thơ Nguyễn Khuyến hay nhất

Dưới đây là tuyển tập những bài thơ hay của Nguyễn Khuyến khiến người đọc ấn tượng. Dù đã sáng tác từ lâu nhưng chúng vẫn giữ nguyên giá trị nhờ tài năng thi ca cùng thông điệp ý nghĩa mà tác giả truyền tải.

Bạn đến chơi nhà

Đã bấy lâu nay bác tới nhà.Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.Ao sâu nước cả, khôn chài cá,Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.Cải chửa ra cây, cà mới nụ,Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.Đầu trò tiếp khách, trầu không có,Bác đến chơi đây ta với ta.

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện tình bạn giản dị, chân thành giữa tác giả và người bạn đến chơi. Sự thiếu thốn vật chất được khắc họa hóm hỉnh, nhấn mạnh giá trị của tình cảm hơn mọi thứ khác.

Chợ đồng

Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,Năm nay chợ họp có đông không?Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.Nếm rượu, tường đền được mấy ông?Hàng quán người về nghe xáo xác,Nợ nần năm hết hỏi lung tung.Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng.

Lời bình: 

Nhà thơ Nguyễn Khuyến mô tả phiên chợ quê nghèo, phản ánh sự khó khăn, lam lũ của người dân. Qua đó, tác giả bày tỏ nỗi niềm thương cảm trước cảnh đời lầm than.

Thơ Nguyễn KhuyếnNhững bài thơ Nguyễn Khuyến tiêu biểu nhất

Cuốc kêu cảm hứng

Khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ,Ấy hồn Thục đế thác bao giờ?Năm canh máu chảy đêm hè vắng,Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

Lời bình: 

Tiếng cuốc kêu ai oán gợi nhớ quê hương và nỗi lòng hoài cổ của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm chất chứa sự khắc khoải về thời thế và tình cảnh đất nước.

Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư

Dĩ hĩ Dương đại niên,Vân thụ tâm huyền huyền.Hồi ức đăng khoa hậu,Dữ quân thần tịch liên.Tương kính thả tương ái,Tao phùng như túc duyên.Hữu thời xuất kinh lộ,Không san văn lạc tuyền.Hữu thời thượng cao các,Ca nhi minh tố huyền.Hữu thời đối quân ẩm,Đại bạch phù bát duyên.Hữu thời dữ luận văn,Đông bích la giản biên.Ách vận phùng dương cửu,Đấu thăng phi tham thiên.Dư lão công diệc lão,Giải tổ quy điền viên.Vãng lai bất sổ đắc,Nhất ngộ tam niên tiền.Chấp thủ vấn suy kiện,Ngữ ngôn thù vị khiên.Công niên thiểu dư tuế,Dư bệnh nghi công tiên.Hốt văn công phó chí,Kinh khởi hoàng hoàng nhiên.Dư khởi bất yếm thế,Nhi công tranh thượng tiên.Hữu tửu vi thuỳ mãi,Bất mãi phi vô tiền.Hữu thi vi thuỳ tả,Bất tả vi vô tiên.Trần Phồn tháp bất hạ,Bá Nha cầm diệc nhiên.Công ký khí dư khứ,Dư diệc bất công liên.Lão nhân khốc vô lệ,Hà tất cưỡng nhi liên.

Lời bình: 

Bài thơ bày tỏ lòng kính trọng và tình cảm tiếc thương của Nguyễn Khuyến dành cho người bạn đồng niên. Những hình ảnh trang trọng, đầy cảm phục thể hiện sự tri ân sâu sắc.

Bác đến chơi đây

Bác đến chơi đây, Bác đến chơi đâyCả phố, cả làng vui mừng náo nứcMấy hôm trước, Bác đi xaHôm nay, Bác trở về

Bác đến chơi đây, cả nhà trông chờĐàn em nhỏ vẫy tay chào mừng BácMẹ cha đứng ở cổngMở rộng vòng tay đón Bác

Bác đến chơi đây, Bác đến chơi đâyLòng dân hân hoan, khắp nơi tiếng cườiChúng cháu xin hứaSẽ học hành chăm chỉ

Bác đến chơi đây, làm ấm lòng chúng cháuNhững bài học của Bác, chúng cháu khắc ghiSẽ cố gắng nhiều hơnXây dựng đất nước, làm theo lời Bác

Lời bình: 

Với giọng điệu hóm hỉnh, bài thơ nhấn mạnh rằng tình bạn chân thành không cần vật chất. Nguyễn Khuyến vui vẻ đón bạn dù không có gì để tiếp đãi.

Chừa rượu

Những lúc say sưa cũng muốn chừa,

Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa.Hay ưa nên nỗi không chừa được.Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.

Lời bình: 

Tác giả hài hước thể hiện quyết tâm từ bỏ thói quen uống rượu nhưng cũng thừa nhận sự khó khăn của việc này. Bài thơ phản ánh tính cách tự trào và sâu sắc của Nguyễn Khuyến.

Chạy Tây

Có người đã nói với tôi rằngĐã sống bao năm rồi, sao không biết đường chạy Tây?Có người đã nói với tôi rằngChạy Tây mới tìm được chỗ đứng trong cuộc đời

Nhưng tôi vẫn đứng ở đâyTrên mảnh đất quen thuộcDưới cái nắng gay gắtVới những cơn mưa bất chợt

Tôi không cần đến TâyVì tôi đã tìm thấy nơi nàyDù đôi khi vẫn bị lạc lốiDù đôi khi vẫn cảm thấy mệt mỏi

Tôi không cần đến TâyVì tôi đã yêu mảnh đất nàyDù nó có những khó khănDù nó có những thử thách

Tôi sẽ không chạy TâyDù có bao nhiêu lời khuyênVì tôi đã tìm thấy giá trịTrong những gì mình đang sống

Dù cuộc đời có những thăng trầmDù cuộc sống có những bất ngờTôi vẫn đứng ở đâyTrên mảnh đất mình yêu thương

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến miêu tả cảnh chạy giặc Tây, phản ánh tâm trạng hoảng loạn và sự đau xót trước sự xâm lăng. Cảm xúc trong thơ vừa đau đớn vừa bất lực.

Tuyển tập thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến

Nguyễn Khuyến thường bị nhầm lẫn với Tú Xương bởi các tác phẩm của ông cũng mang đậm tính trào phúng, chua cay. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến có cách trào phúng khác với Tú Xương, thơ ông không suồng sã, ồ ạt mà tế nhị, kín đáo.

Để rõ hơn Nguyễn Khuyến là tác giả của bài thơ nào hãy cùng điểm qua một số tác phẩm thơ trào phúng của ông:

Tự trào

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.Cờ đương dở cuộc không còn nước,Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.Mở miệng nói ra gàn bát sách,Mềm môi chén mãi tít cung thang.Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

Lời bình: 

Bài thơ tự trào thể hiện sự hài hước và khiêm tốn của Nguyễn Khuyến khi tự giễu bản thân. Qua đó, tác giả phơi bày nỗi niềm bất đắc chí trước thời cuộc.

Lấy Tây

Cái gái đời này, gái mới ngoan,Quyết lòng ẩu chiến với Tây quan.Ba vuông phất phới cờ bay dọc,Một bức tung hoành váy xắn ngang.Trời đất khéo thương chàng bạch quỷ,Giang san riêng sướng ả hồng nhan.Nghĩ càng thêm ngán trai thời loạn,Cái gái đời này, gái mới ngoan!

Lời bình: 

Tác phẩm phê phán việc một số người Việt chạy theo Tây phương, mất đi bản sắc dân tộc. Nguyễn Khuyến thể hiện sự thất vọng và châm biếm sâu cay.

Hội Tây

Kìa hội thăng bình tiếng pháo reoBao nhiêu cờ kéo với đèn treo.Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,Thằng bé lom khom nghé hát chèo.Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.Khen ai khéo vẽ trò vui thế,Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!

Lời bình: 

Bài thơ miêu tả sinh động và châm biếm những buổi hội họp của người Việt với người Tây, nơi mà người dân bị Tây hóa. Sự chế giễu thâm thúy nhấn mạnh sự xa rời giá trị truyền thống.

Cua chơi trăng

Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.Cung quế chờn vờn hương mới bén,Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.Một mai cá nước cua vui phận,Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?

Lời bình: 

Bài thơ với hình ảnh chú cua vui đùa dưới trăng thể hiện sự tinh nghịch và vui tươi trong cảnh thiên nhiên. Đây là một khoảnh khắc giải trí, nhẹ nhàng giữa cuộc sống đời thường.

Ông phỗng đá

Ông đứng làm chi đó hỡi ông?Mà trơ như đá vững như đồng!Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,Non nước đầy vơi có biết không?

Lời bình: 

Hình tượng ông phỗng đá trong bài thơ được sử dụng để phê phán những con người chỉ biết đứng nhìn thời cuộc mà không hành động. Nguyễn Khuyến khéo léo gửi gắm nỗi chua xót về xã hội.

Hoài cổ

Nghĩ chuyện đời xưa cũng nực cười,Sự đời đến thế, thế thời thôi!Rừng xanh núi đỏ hơn nghìn dặm,Nước độc ma thiêng mấy vạn người.Khoét rỗng ruột gan trời đất cả,Phá tung phên giậu hạ di rồi.Thôi thôi đến thế thời thôi nhỉ,Mây trắng về đâu nước chảy xuôi.

Lời bình: 

Bài thơ bày tỏ nỗi nhớ tiếc về thời vàng son đã qua, khi xã hội chưa bị ảnh hưởng bởi sự xâm lược của Tây phương. Tác giả hoài niệm một quá khứ yên bình và trong sáng.

Vịnh sư

Đầu trọc lốc bình vôi,Nhảy tót lên chùa ngồi.Y a kinh một bộ,Lóc cóc mõ ba hồi.Cơm chẳng cần cá thịt,Ăn rặt oản, chuối, xôi.Không biết câu tình dục,Đành chịu tiếng bồ côi.

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến châm biếm thầy tu giả hình, những người lợi dụng tôn giáo để trục lợi. Bài thơ mang tính phê phán xã hội nhưng lại hài hước và sâu sắc.

Anh giả điếc

Trong thiên hạ có anh giả điếc,Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày,Lối điếc ấy sau này em muốn học.Toạ trung đàm tiếu, nhan như mộc,Dạ lý phan viên, nhĩ tự hầu.Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu,khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu,Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc.Điếc như thế ai không muốn điếc?Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!Hỏi anh, anh cứ ậm à!

Lời bình: 

Bằng giọng điệu hài hước, Nguyễn Khuyến vẽ lên hình ảnh một người giả vờ điếc để tránh nghe những lời không hay. Qua đó, tác giả chế giễu sự thiếu thành thật trong xã hội.

Thơ của Nguyễn KhuyếnAnh giả điếc

Tiến sĩ giấy

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,Cũng gọi ông nghè có kém ai.Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,Nét son điểm rõ mặt văn khôi.Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?Cái giá khoa danh ấy mới hờiGhế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!

Lời bình: 

Bài thơ châm biếm những kẻ đỗ đạt mà không có thực tài, chỉ là những “tiến sĩ giấy” vô dụng. Nguyễn Khuyến phê phán sự hư danh và lối học vấn giả tạo.

Đùa ông đồ Cự Lộc

Mưỡu:Văn hay chữ tốt ra tuồng,Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.Vẻ thầy như vẻ con tôm,Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.

Nói:Lịch sự ai bằng thầy Cự Lộc,Gặp cô đầu nói mộc một vài câu:Anh chẳng sang mà cũng chẳng giầu,Hồ bao ních, rận bâu quanh chiếu.Khăn nhuộm lờ lờ mùi nước điếu,Nón chóp sơn vừa méo vừa tròn.Quần vải to ngại giặt ngả màu son,Giầy cóc gặm nhặt dây đàn khâu lấy.Phong lưu ấy mà tình tính ấy,Đến cô đầu vẫn thấy lả lơi bông,Xinh thay diện mạo anh hùng!

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến đùa vui với ông đồ Cự Lộc bằng sự hóm hỉnh, thể hiện tình bạn thân thiết. Bài thơ vừa mang tính chất trào phúng, vừa gần gũi, thân thiện.

Châu Chấu đá vôi

Châu chấu làm sao dám đá voi,Đứng xem ta cũng nực cơn cười.Loe xoe sấn lại dương đôi vế,Ngứa ngáy không hề động nửa đuôi.Hay giở cuộc này ba chén rượu,Được thua chuyện ấy một trò chơi.Nghĩ ra ta cũng thương mình nhỉ,Theo đít còn hơn một lũ ruồi!

Lời bình: 

Bài thơ mượn hình ảnh châu chấu đá voi để chế giễu những người yếu thế nhưng lại tự cao, tự đại. Sự châm biếm trong thơ phản ánh sự tỉnh táo của Nguyễn Khuyến trước thực tế.

Mừng độc học Hà Nam

Ông làm đốc học bấy lâu nay,Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.Tóc bạc răng long chừng đã cụ,Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,Khảo khoá ngày xưa quyển một chầy.Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến thể hiện niềm tự hào và chúc mừng trước sự thành công của nền giáo dục Hà Nam. Bài thơ mang giọng điệu vui tươi và đầy khích lệ.

Bỡn cô tiểu ngủ ngày

Ôm tiu, gối mõ ngáy khò khò,Gió lọt phòng thiền mát mẻ cô.Then cửa từ bi cài lỏng cánh,Nén hương tế độ đốt đầy lò.Cá khe lắng kệ đầu hi hóp,Chim núi nghe kinh cổ gật gù.Nhắn bảo chúng sinh như muốn độ,Sẽ quỳ, sẽ niệm, sẽ nam mô.

Lời bình: 

Bài thơ hài hước miêu tả hình ảnh một cô gái ngủ ngày, qua đó Nguyễn Khuyến chế giễu nhẹ nhàng những người lười biếng, ưa thụ hưởng. Giọng thơ dí dỏm và nhẹ nhàng.

Thầy đồ mắc lừa gái

Nắng mưa lần lữa tháng ngày,Cô tiêu đã lắm thầy vay cũng nhiều.Yêu người, người lại chẳng yêu,Chiều hoa, hoa lại chẳng chiều mới căm.Có đêm thanh vắng bóng hằng,Thầy đương dở chén cô băng vội nằm,Trời mưa dở trống canh năm,Vớ đôi áo mỏng với dăm áo dày.Thầy đương dở giấc nào hay,Tỉnh ra cô đã bỏ thầy cô đi…

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến châm biếm tình huống thầy đồ bị lừa bởi cô gái trẻ, thể hiện sự hóm hỉnh trong việc miêu tả những con người dễ bị lừa gạt. Bài thơ nhẹ nhàng nhưng đầy ẩn ý.

Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Khuyến về mùa thu

Các bài thơ của Nguyễn Khuyến về chủ đề mùa thu được coi là tiêu biểu, là bức tranh thơ bất hủ đặc tả cảnh làng quê Bắc Bộ. Ông khéo léo miêu tả cảnh sắc đất trời khi chuyển thu bằng tài năng nghệ thuật đặc sắc của mình.

Thu Điếu

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Lời bình: 

Bài thơ vẽ nên bức tranh mùa thu yên bình với hình ảnh ao thu, chiếc thuyền câu. Qua đó, Nguyễn Khuyến thể hiện tâm trạng tĩnh lặng và nỗi cô đơn trước sự đổi thay của thời cuộc.

Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn KhuyếnThu Điếu

Thu Ẩm

Năm gian nhà cỏ thấp le te,Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt?Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy.Độ năm ba chén đã say nhè.

Lời bình: 

Bài thơ diễn tả cảm giác u hoài khi nhà thơ nhâm nhi rượu trong tiết trời thu. Sự cô tịch và nỗi buồn ẩn giấu trong men rượu làm bật lên tâm trạng trầm lặng, suy tư về nhân sinh.

Thu Vịnh

Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.Nước biếc trông như tầng khói phủ,Song thưa để mặc bóng trăng vào.Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,Một tiếng trên không ngỗng nước nào?Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Lời bình: 

Nguyễn Khuyến khắc họa cảnh thu quen thuộc, nhưng đằng sau là nỗi lòng trắc ẩn, buồn thương về thời thế. Bài thơ kết hợp vẻ đẹp thiên nhiên với những cảm xúc sâu kín, tạo nên không gian tĩnh lặng.

Thu dạ châm thanh

Canh thâm sương trọng Án cừu khinh,Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh.Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng,Tuỳ phong đoạn tục bán trùng thanh.Kinh hồi thú phụ Tương Thành mộng,Hoán khởi chinh phu nguỵ khuyết tình.Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc,Viễn sơn hà xứ hựu chung minh.

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện khung cảnh đêm thu tĩnh lặng, âm thanh khe khẽ trong đêm mang lại cảm giác cô liêu. Tâm trạng của tác giả hòa vào thiên nhiên, diễn tả nỗi buồn và suy tư trước cuộc đời.

Lời kết

Tất tần tật những thơ Nguyễn Khuyến hay nhất mọi thời đại đã được chia sẻ chi tiết trong bài viết trên. Đây là các tác phẩm xuất sắc, nổi bật khẳng định phong cách sáng tác của Nguyễn Khuyến mà bạn không thể bỏ qua.