Thơ Tú Mỡ khôi hài và mang đậm tính trào phúng. Ông là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam với hàng trăm tác phẩm viết ở đa dạng chủ đề, thể loại. Cùng Thepoetmagazine.org khám phá kho tàng những bài thơ hay nhất của Tú Mỡ, khiến trái tim người yêu thơ phải rung động, thổn thức.
Các tác phẩm tiêu biểu của Tú Mỡ
Những bài thơ hay của Tú Mỡ về chủ đề gia đình, ông cháu được rất nhiều người yêu thích. Cùng điểm qua một số tác phẩm xuất sắc đã làm lên tên tuổi nhà thơ ngay sau đây:
Bạn đang xem: Trọn bộ thơ Tú Mỡ trào phúng, thơ về tết hay nhất
Mùa xuân
Dung dăng dung dẻDẫn trẻ đi chơiMùa xuân đến rồiÁnh xuân tươi sáng.
Đám mây bông trắngNổi giữa trời xanhGió đưa bồng bềnhCao vời lồng lộng
Vườn thênh thang rộngCỏ non xanh vờnHoa đào tươi thắmVườn xuân đầm ấmRíu rít chim ca.
Lời bình:
Mùa xuân thể hiện một góc nhìn nhẹ nhàng và vui tươi về mùa xuân. Ông khắc họa hình ảnh mùa xuân không chỉ là sự tươi mới của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự khởi đầu và hy vọng.
Với ngôn từ giản dị, bài thơ không chỉ tả cảnh mà còn truyền tải niềm vui sống, mang đến cho người đọc một cảm giác yên bình và gần gũi.
Trọn bộ thơ Tú Mỡ về gia đình, tết và thơ châm biếm hay
Ông và cháu
Làm được ông
Không phải dễ
Biết yêu trẻ
Cho ra yêu;
Biết nuông chiều
Cho đúng độ;
Biết dạy dỗ
Chẳng cần roi;
Biết trò chơi
Cho trẻ thích;
Chuyện cổ tích
Biết thật nhiều;
Kể thế nào
Nghe thật khoái;
Biết gấp giấy
Làm thằng người,
Làm thuyền mui,
Làm tên lửa,
Làm con ngựa,
Làm chim cò…
Biết làm bò
Cho cháu cưỡi;
Bài hát mới
Biết dăm ba,
Dậy hát ca
Và biểu diễn;
Biết xử kiện
Cho thông minh,
Được cảm tình,
Không trái lẽ.
Tính con trẻ
Hay tò mò
Hỏi bất ngờ
Vài câu hóm
Oái oăm gớm
Ai? Tại sao?
Làm thế nào?
Nhiều lúc bí…
Ông phải nghĩ
Đáp cho thông.
Cháu với ông
Hai thế hệ
Già hợp trẻ,
Trẻ hợp già
Vui cửa nhà
Thật hạnh phúc!
Lời bình:
Ông và cháu là bài thơ thấm đượm tình cảm gia đình, khắc họa mối quan hệ ấm áp giữa ông và cháu. Tú Mỡ thể hiện sự trìu mến, yêu thương qua những hình ảnh gần gũi, mộc mạc.
Bài thơ như một lời nhắc nhở về giá trị của gia đình, sự truyền đạt tình thương giữa các thế hệ, đem lại cảm giác yên bình và thân thương cho người đọc.
Cái Búp Tăng Gia
Bé ra đời trong kháng chiến,Mười ba tháng chập chững điMôi nụ hồng xinh chúm chím,Mắt nâu một mí, dài mi.Tay tròn như củ cải múp,Ngón thon như búp măng non.Ông đặt tên là cái Búp,Búp bê chạy lon ton.Búp đã bắt đầu cai sữaMẹ sắp chỉnh huấn phương xa,Bồng bế Búp về tạm ởHú hí với ông cùng bà.Trên đồi thấy ông hì hụiNgày ngày vỡ đất tăng giaNgô, khoai, sắn, rau, dứa, chuối,Thêm thặt thức ăn trong nhà.Búp cũng lăng xăng bắt chước,Sơm sớm theo ông ra đồiTay nâng không nổi cái cuốc:– “Cháu cũng tăng gia, ông ơi!”– “Búp tăng gia gì?” – ông hỏiBúp ta lém lỉnh trả lời– “Ông ạ, cháu tăng gia chuốiCháu lại tăng cả gia… xôi”Ông ngắm cháu ngoan loắt choắt,Phủi tay, hôn cháu, cả cười:– “Ông chịu con nhà láu thật!Tăng gia toàn thứ thích xơi”Hôm sau, ông ra lò chợĐánh một cái cuốc con conCho “cô nông dân” bụ bẫmSáng sáng theo ông làm vườn…
Lời bình:
Bài thơ Cái Búp Tăng Gi” cho thấy khả năng quan sát tinh tế của Tú Mỡ trong cuộc sống thường nhật. Qua hình ảnh cái búp, ông phản ánh niềm hy vọng về sự phát triển, sinh sôi và tăng trưởng. Bài thơ ẩn chứa thông điệp về sự kiên nhẫn và niềm tin vào tương lai, dù trong những hoàn cảnh khó khăn.
Thương ông
Ông bị đau chânNó sưng nó tấyĐi phải chống gậyKhập khiễng, khập khàBước lên thềm nhàNhấc chân quá khóThấy ông nhăn nhóViệt chơi ngoài sânLon ton lại gần,Âu yếm, nhanh nhảu:“Ông vịn vai cháu,Cháu đỡ ông lên.”
Ông bước lên thềmTrong lòng sung sướngQuẳng gậy, cúi xuốngQuên cả đớn đauÔm cháu xoa đầu:“Hoan hô thằng bé!Bé thế mà khoẻVì nó thương ông.”
Đôi mắt sáng trongViệt ta thủ thỉ:“Ông đau lắm nhỉ?Khi nào ông đauÔng nhớ lấy câuBố cháu vẫn dạyNhắc đi nhắc lại:– Không đau! Không đau!Dù đau đến đâu,Khỏi ngay lập tức.”
Tuy chân đang nhức,Ông phải phì cười:“Ừ, ông theo lờiThử xem có nghiệm”Ông bèn nói liền:“Không đau! Không đau!”Và ông gật đầu:“Khỏi rồi! Tài nhỉ!”Việt ta thích chí:“Cháu đã bảo mà…!”Và móc túi ra:“Biếu ông cái kẹo!”
Lời bình:
Thương ông là bài thơ xúc động về sự mất mát và tình cảm sâu sắc dành cho người ông đã khuất. Tú Mỡ dùng ngôn từ nhẹ nhàng để bày tỏ nỗi buồn và sự nhớ nhung, nhưng đồng thời cũng gửi gắm niềm tự hào về cuộc đời của ông.
Bài thơ là lời tri ân, tôn vinh những giá trị đạo đức mà người ông để lại. Nếu bạn còn thắc mắc Tú Mỡ là tác giả của bài thơ nào thì Thương ông chính là câu trả lời số 1.
Thương ông
Cháu là thanh niên
Thằng Sơn lên bảy tuổiBé nhất nhà chon nênÔng yêu ông gọi nựngLà thằng Ẻm thằng EmTình nó cũng ngoan ngoãnNhưng láu lỉnh ngang nhiênNhiều “lý do lý trấu”Để bênh vực lẽ riêng.
Trời nổi gió đông bắcÔng kêu gọi thằng Em:– “Mau lấy áo len mặcKẻo cảm lạnh ho hen”Thằng Em liến thoắng đáp:– “Cháu đang thấy nóng điên”– “Nhưng ông thấy trời lạnhBảo cháu phải nghe lời”– “Ông già ông sợ lạnhCòn cháu là thanh niên”
Ồ thanh niên lên bảyThằng bé nói dị kỳÝ chưng muốn nhảy vọtQua giai đoạn thiếu nhi?– “Tốt lắm! Nhưng ông hỏi:Đã ba sẵn sàng chưa?”– “Chưa! Cháu chưa đến tuổiLà thanh niên nhận vờ”– “Bây giờ nghe ông bảoThanh niên hãy xung phongChống lạnh mặc thêm áo”– “Sẵn sàng vâng lời ông!”
Lời bình:
Tú Mỡ khắc họa hình ảnh người thanh niên với tinh thần nhiệt huyết và đầy trách nhiệm. Ông đề cao vai trò của lớp trẻ trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Bài thơ không chỉ là lời kêu gọi mà còn là lời khích lệ đối với thế hệ thanh niên, truyền tải niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Khóc người vợ hiền
Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thực ư ?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai
Đâu bóng dáng con người thùy mị,
Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,
Vần còn khỏe mạnh, vui tươi,
Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.
Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ
Một cô nào thiếu nữ thanh tân.
Vậy mà cái chết bất thần
Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!
Kể từ thuở đôi ta kết tóc,
Thấm thoát gần năm chục năm qua
Thủy chung chồng thuận vợ hòa,
Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm.
Tôi được bà vợ hiền thuần thục,
Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!
Đôi ta cùng một cảnh nghèo,
Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.
Nhớ khi giường bệnh đã nằm,
Xem thêm : Những bài thơ về tết Trung Thu ngắn – vui cho bé, trẻ mầm non
Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng
“Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,
Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta
Xưa nay con cái nuôi cha
Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông.
“Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,
Giấc nghìn thu cho thoả vong hồn,
Bà đi, đã có dâu con,
Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.
Tôi có khổ, âu là chỉ khổ
Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,
Khổ khi thức giấc tàn canh
Bên giường trống trải một mình nằm trơ.
Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước
Pha ấm trà chén nước mời nhau.
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi…
Khổ những lúc ra sân mê tỉnh
Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,
Mà bà khuất núi cho đang,
Quả cau tươi, lát rầu vàng ai xơi?
Khổ trông thấy cái cơi còn đó,
Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.
Ba thước đất đã vùi sâu
Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi
Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng,
Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu
Không ngờ con tạo cơ cầu,
Bà đi, để tủi dể sầu cho tôi
Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,
Năm mu_ơi năm thám thiết yêu nhau!
Bà về trước, tôi về sau
Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui
Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,
Công việc đời còn dở tí thôi,
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà…
Lời bình:
Khóc người vợ hiền là bài thơ mang tính tự sự, chất chứa nỗi đau mất mát khi Tú Mỡ viết về người vợ đã qua đời. Ngôn từ trong bài thơ là sự kết hợp giữa nỗi buồn và lòng biết ơn sâu sắc đối với người vợ, người đã gắn bó và chia sẻ cùng ông suốt cuộc đời.
Đây là một bài thơ rất cảm động về tình cảm vợ chồng, gợi lên sự trân quý đối với hạnh phúc giản dị trong cuộc sống.
Mười thương
Một thương tóc lệch đường ngôi,
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san.
Ba thương hôm sớm điểm trang,
Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau.
Năm thương lược Huế cài đầu,
Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên.
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền,
Tám thương động tí nữ quyền giở ra.
Chín thương cô vẫn ở nhà,
Mười thương… thôi để mình ta thương mình…
Lời bình:
Tú Mỡ sử dụng hình thức liệt kê quen thuộc trong thơ ca dân gian để ca ngợi vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ. Ông kết hợp những lời khen tặng với giọng thơ hóm hỉnh và tươi vui, làm cho bài thơ trở nên nhẹ nhàng nhưng vẫn đầy ý nghĩa.
Bài thơ vừa ca ngợi vừa bày tỏ tình yêu và sự trân trọng đối với người phụ nữ trong cuộc đời.
Phở đức tụng
Trong các món ăn “quân tử vị”,Phở là quà đáng quý trên đời.Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi,Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.Náy bánh cuốn, này thịt bò, này nước dùng sao nhánh mỡ,Ngọn rau thơm, hành củ thái trên.Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm, ớt điểm thêm,Khói nghi ngút đưa lên thơm ngát mủi.Như xúc động tới ruột gan bàn phổi,Như giục khơi cái đói của con tì.Dẫu sơn hào, hải vị khôn bì,Xới một bát nhiều khi chưa thích miệng.Kẻ phú quý cho chí người bần tiện,Hỏi ai là đã nếm không ưa,Thầy thông, thấy phán đi sớm về trưa,Điểm tâm phở, ngon ơ và chắc dạ.Cánh thuyền thợ làm ăn vất vả,Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn.Khách làng thơ đêm thức viết văn,Được bát phở cũng đỡ băn khoăn óc bí…Bọn đào kép, con nhà ca kỹ,Lấy phở làm đầu vị giải lao.Chúng chị em sớm mận tối đào,Nhờ có phở cũng đỡ hao nhan sắc.Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc,Quế, phụ sâm, nhung chưa chắc đã hơn gì.Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.Anh em lao động đồng tiền không rúc rích,Coi phở là môn thuốc ích vô song.Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món.Chớ chê phở là đồ ăn hèn mọn,Dẫu sao thành Ba-Lê còn phải đón phở sang.Cùng các cao lương vạn quốc phô trương,Ngon lại rẻ, thường hay quán giải.Sống trên đời, phở không ăn cũng dại,Lúc buông tay ắt phải cúng kem.Ai ơi, nếm thử kẻo thèm.
Lời bình:
Phở đức tụng là một bài thơ hài hước và duyên dáng, sử dụng món phở – món ăn quen thuộc của người Việt – để tạo nên một bức tranh sống động về ẩm thực và đời sống. Tú Mỡ khéo léo lồng ghép các yếu tố văn hóa và tinh thần dân tộc qua việc tán tụng món phở, đồng thời tạo nên sự hóm hỉnh, giải trí nhẹ nhàng nhưng đầy chất thơ.
Những bài thơ Tú Mỡ trào phúng hay nhất
Những bài thơ của Tú Mỡ thường được viết theo phong cách khôi hài, xen lẫn châm biếm. Ông khéo léo dùng giọng thơ như bông đùa để lên án, phê phán các thói hư tật xấu trong xã hội.
Dạy búp bê
Đặt con búp bê nhựaĐứng quay mặt vào tườngNguyệt làm bộ nghiêm trangLên cái giọng con cớnMắng rằng: “Con gái lớnĐã lên tám tuổi rồiMẹ dạy chẳng nghe lờiDạo này cô hư quáMẹ gọi cô không dạMẹ bảo cô mần thinhCái mặt rắn như sànhÚi chà đanh đá khiếp!Mỗi ngày có hai vệc:Bữa cơm xong quét nhàVà cứ sáng ngày raCọ rửa bộ ấm chénThế mà cô lười biếngCứ trốn như chãch thôiCô cứ để cho tôiNgày ngày phải làm hộBảo cô đã rát cổNhư nước đổ lá khoaiCó con gái nhà aiLại hư thân mất nết?Đáng lẽ tôi phải đétCho cô trận đòn đauNhưng cô đã bẹp đầuMà lại còn sứt mũiVì mấy lần ngã chúiCho nên tôi lại thươngChỉ bắt cô đứng tườngĐể thi hành kỷ luật”
Nhìn cháu nghiêm nét mặtÔng không nhịn được cườiCháu học đâu những lờiNghiêm chỉnh pha hài hướcMà đem ra bắt chướcĐể dạy cái búp bê?Nhưng được cái không chêLà từ ngày hôm đóNguyệt ta rất là nhớRựa ấm chén, quét nhàĐiều gì dạy người taChính mình phải làm trước!
Lời bình:
Đây là một bài thơ vui nhộn, khéo léo sử dụng hình ảnh búp bê để chế giễu sự giả dối, trống rỗng của một số con người trong xã hội. Tú Mỡ sử dụng giọng điệu hài hước để phê phán, nhưng đồng thời cũng tạo nên một bức tranh vui tươi, tràn đầy sức sống.
Dạy búp bê
Đóng thuế thân
Biết cơ đầu tháng tiền chưa cạnToà thuế Hà Thành rất mẫn cánGiục giã các thầy đóng thuế thânKhiến mình trong dạ đâm ngao ngán!
Ơn nhờ cái miệng mấy “ông dân”Sưu tớ năm nay gấp bộn phần:Hai chục bảy đồng, đau quá hoạn!Cắn răng nộp vậy, dám lần khân
Lấy bát họ con vừa giốc ốngGạt thầm giọt lệ đem đi cống…Làm tròn bổn phận một thằng dânCó những đoàn trùm vô sở vọng
Ngẫm nghĩ, song le cũng tự hàoDân mình há chịu kém ai sao!Tự do bình đẳng tuy thua thiệtNhưng đã bằng người cái… thuế cao!
Lời bình:
Đóng thuế thân là bài thơ trào phúng sắc bén, lên án chính sách bóc lột của thực dân Pháp đối với người dân thuộc địa. Tú Mỡ sử dụng ngôn ngữ châm biếm để phản ánh sự bất công và khổ cực mà người dân phải chịu đựng khi phải đóng thuế thân.
Bài thơ tạo nên sự hài hước cay đắng nhưng không kém phần ý nghĩa, phơi bày hiện thực xã hội một cách mạnh mẽ.
Hát sẩm
Anh thì hào, anh thì hàoChúng anh xưa cũng mặt anh thì hàoCũng phường tai mắt, anh nào có chịu kém ai!Cung cách phong lưu, anh cũng đủ mùi đờiChỉ còn thiếu nỗi, lên trời trọc tiênKể từ ngày thế sự đảo điênLàm cho anh dơ cả mắt, hoá cho nên anh phải hoá mùNgước cái con ngươi, anh chỉ thấy cái bóng lù lù…Cuộc đời xoay chuyển, anh vẫn ù ù, minh minhNgười ta thời tiến bộ cạnh tranhMà anh đây chẳng biết ánh sáng văn minh nó ra thế nàoSố phận nhá nhem, song le anh vẫn tự hàoNợ đời lo trả, há nào thua ai!Nghiệp sẩm soan thế mà có ích cho đờiTay đàn, miệng hát, anh giúp người thêm vuiAnh thẹn cho phường con mắt chẳng đuiÚa sương nặng thịt, chỉ ngồi dồi ăn dưngAnh lại thương cho phường con mắt tráo trưngThấy của đời, than ôi! tối mắt [?] lăn lưng vơ quàngChưng anh đây danh lợi chẳng màngSuốt đời ca hát, sường tràn hơn tiênCó cóc ra gì cái thời buổi bạc đenAnh chẳng thèm mở mắt để bon chen vì tiềnĐược cái thảnh thơi, quan bất nhiễu, dân bất phiền…
Lời bình:
Tú Mỡ mượn hình ảnh người hát rong để phê phán xã hội đương thời. Những người hát sẩm, đại diện cho tầng lớp dưới đáy xã hội, sống vất vả trong cảnh khốn khó.
Qua bài thơ, tác giả khéo léo gợi lên sự thương cảm nhưng cũng chỉ trích sự thờ ơ, vô cảm của những người quyền thế. Bài thơ vừa mang tính xã hội vừa tràn đầy ý vị châm biếm.
Sư cậu đi hát ả đào
Có hai “sư cậu” chùa Bà,Ăn no rửng mỡ la cà rong chơi.Tịnh chay mãi cũng chán đời,Nên sư phá giới nếm mùi phong lưu.Lần mò đến xóm hồng lâu,Ở Ngã Tư Sở, cô đầu tìm chơi.Kinh ân ái, tượng mày ngài,Sư đang tụng niệm lả lơi với tình.Ngón chầu tom chát đang xinh,Bỗng thầy chánh tổng thình lình tạt qua.Nhác trông bóng sãi kề hoa,Bạch sư hổ lửa: “Đâu mà đến đây?”Sư rằng: “Chơi gió, chơi mây,Nhỡ đường vào tạm chốn này trú chân,Rượu chay nhấp chén tẩy trần,Hát chay di dưỡng tinh thần miên man.”Thầy chánh đe giải lên quan,Lưỡng sư xanh mắt, kêu van, nằn nì.Chắp tay, rồi lạy, rồi quỳ,Sì sà sì sụp như kỳ dâng sao.Rằng: “Nay trong cuộc tiêu dao,Ma vương đưa lối lạc vào xóm hoa.Lần này chót dại xin tha,A di đà phật! Đến già xin tu!”
Lời bình:
Sư cậu đi hát ả đào là bài thơ mang đậm tính chất châm biếm, phản ánh những hiện tượng trái với đạo đức xã hội. Tú Mỡ dùng hình ảnh của một “sư cậu” đi nghe hát ả đào để phê phán sự suy đồi, giả dối và đạo đức giả của một số người khoác lên mình lớp áo tôn giáo.
Bài thơ vừa hài hước vừa khiến người đọc suy ngẫm về sự xung đột giữa hình thức và thực chất trong xã hội.
Còn say
“Nhắn bác Tản Đà”
Đã lâu, bác mới ra đời,Tưởng rằng gột óc theo thời duy tân.Nào ngờ bác vẫn say lăn,Lè nhè vẫn giọng thơ văn trái mùa.Vẫn còn mộng mị, mơ hồ,Người đời vui sống, bác ngờ chiêm bao,Người đời hoạt động xôn xao,Bác vờ triết lý thanh cao: bác lười!Ngồi dưng nổi bệnh chán đời.Bác buồn trời gió, rồi trời lại mưa!Giải buồn chén tít say sưa,Chai con chai bố vẫn chưa hết buồn!Rượu vào, rồng rổng thơ tuôn,Miệng ngâm sặc sụa hơi cồn, mùi men,Bác rằng: khách tục bon chen,Lao tâm, lao lực, thấp hèn bác thương.Đời rằng: bác dở, bác ương,Giả danh ẩn dật là phường bỏ đi.Bác rằng: chữ thọ quí chi.Lợi, danh, hão cả! Ham gì sống dai?Đời rằng: thuận với lẽ trời,Sống mà gánh vác việc đời mới hay.Còn như sống để mà… say.Hỏi ai vất vưởng bấy nay làm gì?Rung đùi, rượu nốc tì tì,Người ta tỉnh, bác li bì vẫn mê!
Lời bình:
Trong Còn say, Tú Mỡ vẽ lên hình ảnh của những kẻ say rượu với cái nhìn châm biếm hài hước. Tác giả không chỉ đả kích lối sống bê tha, sa đọa mà còn phơi bày mặt trái của xã hội nơi con người tìm đến rượu để trốn tránh hiện thực. Bài thơ mang một thông điệp về sự tỉnh táo và cần thiết của việc sống có trách nhiệm.
Và ông già trẻ
Ngược đời có lắm cụ già nua
Nhí nhảnh làm ra bộ tuổi thơ
Đầu tóc nhuộm đen hòng trẻ lại
Râu ria cạo trụi rõ…trai lơ
Đua chơi ra phết ông còn khoẻ
Làm việc lơ mơ, cụ kiếu già
Thấy gái y như mèo thấy mỡ
Năm thê bảy thiếp cũng không vừa.
Lời bình:
Và ông già trẻ thể hiện sự mỉa mai của Tú Mỡ về hiện tượng già mà không nên nết, khi một số người lớn tuổi vẫn cư xử thiếu chín chắn, chạy theo những thú vui vô bổ.
Bài thơ sử dụng lối trào phúng hài hước nhưng sâu sắc, nhắc nhở về lẽ phải và đạo đức trong cuộc sống.
Khoe lười
Anh em chớ bảo ta lười,Làm việc cho hay phải thức thời.Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,Đông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,Anh em chớ bảo ta lười.
Lời bình:
Khoe lười là tác phẩm độc đáo của Tú Mỡ, trong đó ông biến sự lười biếng thành một điều đáng tự hào qua giọng thơ hài hước. Bài thơ mỉa mai cách sống ỷ lại, không làm mà chỉ khoe khoang, thể hiện tinh thần phê phán xã hội, nhưng cũng tạo nên tiếng cười nhẹ nhàng.
Khoe lười
Phu kéo xe
Xưa nay các học trò lườiMẹ cha mắng mỏ, nặng lời mỉa maiRằng: “Mày lêu lổng. rông ràiNhớn lên thời đến suốt đời kéo xe!”Bây giờ thời buổi khắt kheKéo xe cũng hoá ra nghề khó khăn!Cu ly cũng phải lấy… bằngCủa toà đốc lý chứng rằng… chính tôngLà người da sắt, xương đồngKhoẻ chân, cứng gối, vốn giòng kiện nhiDanh trong, giá sạch như liChẳng khi can án, chưa khi ngồi tùBao lần giấy, bấy lần… xuMới làm nên chức đại “phu xe hàng”Phải đâu là việc dễ dàng!
Lời bình:
Xem thêm : Những bài thơ về chú bộ đội, người lính hải quân ngắn, hay và ý nghĩa
Phu kéo xe phê phán xã hội sâu sắc. Tác giả khắc họa hình ảnh những người phu kéo xe với cuộc sống vất vả, nghèo khó. Tú Mỡ cảm thương cho số phận của họ, đồng thời phản ánh sự bất công trong xã hội thuộc địa. Bài thơ gây ấn tượng mạnh với ngôn từ giàu cảm xúc và tính nhân văn.
Tượng lo
A di đà Phật!Bụt trên toà ngồi ngất bệ senTưởng rằng nhà Bụt chí hiềnTừ bi từ tại, ai phiền nhiễu chi!Nào nhờ gặp thời kỳ tranh chiếnCõi phàm trần tai biến lung tungLoạn đằng Tây, loạn đằng ĐôngCảnh từ bi cũng hãi hùng, tượng lo…Cũng là bởi duyên do vạ vịtTự anh chàng họ Hít tên LeDùng dấu hiệu thực éo leTrăm nghìn vạn dấu, thiếu gì dấu hayMà lại chọn nhằm ngay chữ thậpDấu hiệu riêng nhà Phật từ biĐể sinh ra chuyện hồ nghiGiận cá chém thớt, biết thì tại sao?Chữ thập ngoặc ghép vào quốc cấmPhướn, cờ còn giấu dấm được chăngKhắc vào tượng gỗ, mần răng?Có khi bị đẽo, nên rằng… tượng lo
Lời bình:
Tượng lo là thơ châm biếm, nhắc nhở con người về sự lo âu quá mức đối với những chuyện không đâu. Tú Mỡ thể hiện sự mỉa mai đối với lối sống vô trách nhiệm, thụ động, đồng thời khuyến khích sự can đảm, dám đối diện với thử thách trong cuộc sống.
Các ông nghị đi xem đồn điền di dân
Người ta mời các nghị viên,Lên Yên Bái xem đồn điền di dân.Có quan Công sứ đại thần,Mới về nhà “xẹc” ân cần thết cơm.Cần thường đặc biệt An NamCỗ tuy lòng dấm, món làm cũng thơm.Nào là lòng lợn mắm tôm,Nào là bò tái chấm tương điểm gừng.Thịt dê nướng chả thơm lừng,Tiết dê pha rượu vô cùng bổ dương.Vịt hầm nhừ biến cả xương,Thịt nhồi mộc nhĩ nấm hương ngon lành.Cỗ bàn đủ cả tam sinh,Rượu ngon nhắm tốt thoả linh các ngài.Bữa nay được dịp trổ tài,Với thời khí vụng ăn thời rất hay.Của ngon thức thức sẵn bày,Bát này đĩa nọ hết bay rầm rầm!Tiệc tan khi đã triệt mâm,Mặt to tai lớn đỏ hăm hồng hào.Các ngài chếnh choáng lao đao,Ra ga bước thấp bước cao lên tàu.Bồi bàn một lũ theo hầu,Nước chanh, nước đá, chè Tầu, rượu bia.Bây giờ men ngấm hao ghê,Sẵn đồ giã rượu hả hê dạ dày.Kẻ hầu tíu tít luôn tay,Các “ông dân” cũng ngớt say tỉnh dần.Đi xem công cuộc di dân,Hẳn nhìn mọi sự bội phần lớn to.Khi về nhớ… bữa say no,Ghi lòng tạc dạ tái bò chả dê.
Lời bình:
Bài thơ này là tác phẩm trào phúng về các ông nghị viên – những người đại diện cho quyền lực nhưng lại thờ ơ trước nỗi khổ của nhân dân. Tú Mỡ dùng giọng thơ hài hước để chỉ trích sự vô cảm và thiếu trách nhiệm của tầng lớp lãnh đạo, đặc biệt là trong vấn đề di dân và khai hoang đồn điền.
Thề đi
Vì tiền có vụ kiện nhau
Thần công lý chẳng biết đâu mà rờ.
Mượn, vay, tờ chữ mập mờ,
Kẻ kêu chưa giả, người thưa giả rồi.
Thật là rắc rối, lôi thôi,
Quan toà chẳng rõ ai người gian ngay.
Các ngài đành chịu bó tay
Muốn ra manh mối phải xoay thần quyền.
Sức cho bên bị, bên nguyên
Ra đền Hàng Trống mà tuyên lời thề.
Ai ngay, Thánh để cho về…
Ai gian, Thánh vật xuống hè chết tươi.
Đền Hàng Trống? Các ngài ơi,
Các ngài hãy để cho tôi phì cười.
Đền Hàng Trống dạo vừa rồi
Bị thẳng kẻ trộm vào moi hòm tiền.
Thánh Bà nếu quả linh thiêng,
Đã làm cho nó đảo điên rụng rời..!
Nói chi đến việc thề bồi,
Bầy trò che mắt con người thế gian!
Từ xưa, bao kẻ khai man,
Vẫn nguây nguẩy sống, bình an như thường.
Thần thiêng, ồ chuyện hoang đường!
Thề trê chui ống, trò mường ai tin?
Lời bình:
Thề đi nhắm vào thói hứa hẹn suông của nhiều người trong xã hội. Tú Mỡ khéo léo phê phán thói quen nói mà không làm, thể hiện sự châm biếm đối với những người không giữ chữ tín. Bài thơ khiến người đọc phải suy ngẫm về giá trị của lời nói và hành động trong cuộc sống.
Các bài thơ của Tú Mỡ về tết
Ngoài các tác phẩm của Tú Mỡ về đề tài châm biếm ở trên còn rất nhiều những bài thơ hay về tết do ông sáng tác. Dưới đây là tổng hợp tất tần tật các sáng tác xuất sắc nhất:
Lý Toét chơi xuân
Đầu năm Lý Toét chơi xuân
Phất phơ bộ cánh, áo quần bảnh bao
Khăn nhiễu đỏ quấn đầu, quấn cổ
Áo láng thâm lót lụa mầu vàng
Quần hồng súng sính, xênh xang
Chân đi giép Nhật quai ngang điếm đời
Ô-lục-soạn vắt vai, ra dáng!
Đầu cán ô giầy láng buộc treo
Trước ngực đeo bao kính thêu
Quạt tầu chổng gọng giắt ngoèo thắt lưng
Trông dáng bộ tưng bừng phớn phở
Mắt gấp gãy nhăn nhở miệng cười
Cụ mừng tết đã tới nơi
Trời cho thăng chức lên ngôi lão làng…
Lời bình:
Lý Toét chơi xuân mang đậm tính hài hước và châm biếm, phản ánh hình ảnh của những người mê chơi mà thiếu trách nhiệm. Tú Mỡ khắc họa Lý Toét như một nhân vật ngây ngô, dại dột, với những hành động vụng về trong ngày Tết.
Qua đó, tác giả không chỉ mang đến tiếng cười mà còn gửi gắm thông điệp về sự thiếu hiểu biết và tính hời hợt của một số người trong cuộc sống hiện đại.
Lý toét chơi xuân – Thơ Tú Mỡ
Khai bút rông
Là văn sĩ lẽ nào không khai bút
Chẳng hay ho cũng nắn nót một bài
Ngót hai năm xổng bút mỉa mai đời
Thì Tết đến cũng phải có bài thơ rắc rối
Rót thêm mực, thay ngòi bút mới
Thảo mấy dòng cảm khái sau đây.
Thơ rằng:
Tú chi Tú ấy nực cười thay,
Chẳng phải Nho, mà chẳng phải Tây!
Dửng mỡ, trêu đời, văn mách qué,
Thế mà cũng tiếng bấy lâu nay!
Ngồi ngâm thơ, đùi rung chuyển ghế mây,
Rồi chép lại, rắp thả ngay “Giòng nước ngược”.
Bắt chước cụ Tú Xương thuở trước,
Hỏi mợ Tú rằng nghe được hay chăng?
Bĩu môi, mẹ đĩ chê rằng:
“Nôm na mách qué, nhố nhăng nực cười!”
Ðầu năm đã bị rông rồi,
Hẳn là văn viết ngược đời quanh năm!
Lời bình:
Tú Mỡ thể hiện sự hài hước trong việc mở đầu một năm mới bằng những ý tưởng ngẫu hứng và không cầu kỳ. Bài thơ phản ánh cái nhìn thoải mái, vui vẻ của tác giả đối với việc viết lách và sáng tạo.
Với ngôn từ dí dỏm, tác giả khuyến khích sự tự do trong tư duy và khả năng sáng tạo của mỗi người, đồng thời tạo ra không khí vui tươi cho mùa xuân.
Ghét tết
Thiên hạ sao ưa Tết?
Hẳn vì mặc áo đẹp
Tớ đây bảo Tết phiền
Ghét!
Tiêu pha thật tốn tiền
Chè chén cứ liên miên
Hết Tết đâm lo sợ
Điên!
Mồng một đi mừng tuổi
Chúc nhau nghe inh ỏi
Toàn câu sáo rác tai
Thôi!
Mừng tuổi đèo phong bao
Năm xu lại một hào
Ai sinh cái lệ đó?
Hao!
Kiết xác như vờ rồi
Còn ngông đốt pháo mãi.
Pháo kêu: Tiền hỡi tiền
Dại!
Lời bình:
Ghét tết thể hiện một thái độ trái ngược với tinh thần mừng xuân. Tú Mỡ không ngần ngại bộc lộ nỗi chán ghét và áp lực mà Tết mang lại cho nhiều người.
Thông qua những hình ảnh sống động và cảm xúc chân thật, tác giả phê phán những mặt tiêu cực của Tết, như sự bon chen, gánh nặng chi tiêu và sự giả dối trong mối quan hệ. Bài thơ vừa châm biếm vừa phản ánh những suy tư sâu sắc về xã hội và tâm lý con người trong những ngày đầu năm.
Lời kết
Những bài thơ Tú Mỡ hay nhất đã được tổng hợp và chia sẻ chi tiết trong bài viết trên. Mỗi tác phẩm đều viết về một chủ đề riêng nhưng luôn đảm bảo tính hài hước, châm biếm sâu sắc. Ông xứng đáng là nhà thơ thiên tài, có một không hai của nền văn học Việt Nam.
Nguồn: https://tuyengiaothudo.vn
Danh mục: Thơ