Những tác phẩm Nguyễn Trãi mang nhiều đóng góp to lớn trong lĩnh vực quân sự và chính trị. Với lối viết sắc sảo, ngắn gọn nhưng chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, các bài thơ và văn chính luận của ông là di sản văn hóa vô giá của dân tộc.
Trọn bộ tác phẩm Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một trong những nhân vật vĩ đại trong lịch sử văn hóa Việt Nam, nổi tiếng không chỉ với vai trò chính trị gia, quân sự gia, và ngoại giao gia mà còn là một nhà thơ xuất sắc.
Bạn đang xem: Tổng hợp các tác phẩm Nguyễn Trãi hay tiêu biểu
Ông có nhiều đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Minh và đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng nhà nước Đại Việt dưới triều Lê Sơ.
Trong số các tác phẩm của ông, thơ ca là thể lọai được yêu thích và nổi bật nhất. Tập thơ Ức Trai viết bằng chữ Hán với 105 bài thơ là di sản văn hóa quý báu mà ông để lại cho thế hệ sau.
Ngoài ra, tập văn chính luận Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi chắp bút được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam. Tác phẩm này nổi bật với sự sắc sảo, súc tích, đồng thời chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc, góp phần tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ cho văn bản. Đây cũng là phong cách sáng tác Nguyễn Trãi thường thấy.
Giới thiệu các tác phẩm Nguyễn Trãi hay nổi bật
Tác phẩm của Nguyễn Trãi đa dạng từ thơ chữ Nôm, chữ Hán cho tới văn chính luận. Trong suốt sự nghiệp sáng tác, ông để lại cho nền văn học Việt một kho tàng những tác phẩm hay xuất sắc như:
Thơ chữ Hán
- Ức Trai thi tập (105 bài)
Thơ chữ Nôm
- Quốc âm thi tập (254 bài).
- Băng Hồ di sự lục (10 bài).
Văn chính luận
- Bình Ngô đại cáo.
- Quân trung từ mệnh.
- Chí Linh sơn phú.
- Các thư từ gửi tướng Minh.
Tác phẩm lịch sử
Tác phẩm lĩnh vực địa lý
- Hồng Đức bản đồ.
- Dư địa chí.
Tuyển tập thơ Nguyễn Trãi bằng chữ Hán
Cùng điểm qua những bài thơ hay của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán trong tập thơ Ức trai thi tập và một số bài thơ lẻ khác:
Ba tiêu
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,Đầy buồng lạ, màu thâu đêm.Tình thư một bức phong còn kín,Gió nơi đâu, gượng mở xem..
Lời bình:
Ba tiêu là bài thơ phản ánh vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm trạng của tác giả qua hình ảnh ba mảnh trăng trên bầu trời. Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh thiên nhiên để thể hiện sự hòa quyện giữa con người và vũ trụ, đồng thời bộc lộ những cảm xúc sâu lắng về cuộc đời và số phận.
Mỗi mảnh trăng không chỉ là một phần của bức tranh thiên nhiên mà còn gợi nhắc về những kỷ niệm và trải nghiệm cá nhân.
Côn Sơn ca
Côn Sơn hữu tuyền,Kỳ thanh lãnh lãnh nhiên,Ngô dĩ vi cầm huyền.Côn Sơn hữu thạch,Vũ tẩy đài phô bích,Ngô dĩ vi đan tịch.Nham trung hữu tùng,Vạn lí thuý đồng đồng,Ngô ư thị hồ yển tức kì trung.Lâm trung hữu trúc,Thiên mẫu ấn hàn lục,Ngô ư thị hồ ngâm tiêu kỳ trắc.Vấn quân hà bất quy khứ lai,Bán sinh trần thổ trường giao cốc?Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,Ẩm thuỷ phạn sơ tuỳ phận túc.Quân bất kiến: Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,Nguyên Tái hồ tiêu bát bách hộc.Hựu bất kiến: Bá Di dữ Thúc Tề,Thú Dương ngạ tử bất thực túc?Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu,Diệc các tự cầu kì sở dục.Nhân sinh bách tuế nội,Tất cánh đồng thảo mộc.Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục.Nhân gian nhược hữu Sào Do đồ,Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Côn sơn ca
Lời bình:
Côn Sơn ca là bài thơ nổi tiếng, miêu tả cảnh sắc thiên nhiên tại Côn Sơn, nơi Nguyễn Trãi thường lui tới để tĩnh tâm. Bài thơ thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, với những hình ảnh sinh động và tinh tế của cảnh vật.
Nguyễn Trãi sử dụng cảnh sắc yên bình của Côn Sơn để phản ánh tâm trạng thanh thản và sự giải thoát khỏi những bận tâm trần tục, đồng thời bày tỏ lòng yêu thiên nhiên và sự tìm kiếm chân lý trong cuộc sống.
Mộng sơn trung
Thanh Hư động lý trúc thiên can,Phi bộc phi phi lạc kính hàn.Tạc dạ nguyệt minh thiên tự thuỷ,Mộng kỵ hoàng hạc thượng tiên đàn.
Tạm dịch:
Trong động Thanh Hư có hàng nghìn cây trúc,Thác nước bay xuống như lớp kính lạnh.Đêm qua trăng sáng trời như nước,Chiêm bao thấy cưỡi hạc vàng lên cõi tiên.
Lời bình:
Mộng sơn trung là bài thơ phản ánh tâm trạng của Nguyễn Trãi khi tìm về sự thanh tịnh và cô tịch giữa núi rừng. Ông mượn giấc mộng để bày tỏ mong muốn thoát ly khỏi những phiền toái trần gian và tìm về với thiên nhiên, nơi mà con người có thể sống hòa hợp với đất trời.
Hình ảnh núi rừng vừa hoang dã, vừa yên tĩnh trong bài thơ thể hiện khát khao của Nguyễn Trãi về một cuộc sống bình yên, tách biệt với thế tục, đồng thời cũng là sự tìm kiếm sự giác ngộ và chân lý trong cuộc sống.
Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,Môn ngoại toàn vô tục khách lai.Đỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão,Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.
Tạm dịch:
Nhàn rỗi suốt ngày đóng cửa phòng sách,Ngoài cửa vắng khách tục đến.Trong tiếng đỗ vũ kêu ý chừng xuân đã muộn,Cả một sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.
Lời bình:
Mộ xuân tức sự thể hiện sự suy tư của Nguyễn Trãi về thời gian trôi qua và sự đổi thay của cảnh vật khi mùa xuân dần kết thúc. Bài thơ là sự kết hợp giữa cảm xúc tiếc nuối về sự tàn phai của mùa xuân và suy ngẫm sâu sắc về những biến đổi của đời người.
Qua hình ảnh cuối xuân, Nguyễn Trãi gửi gắm thông điệp về sự vô thường của thời gian, cũng như những suy tư về cuộc đời ngắn ngủi và giá trị của sự sống. Bài thơ mang đậm màu sắc triết lý, vừa phảng phất nét u buồn, vừa phản ánh sự thấu hiểu và chấp nhận quy luật của tự nhiên.
Trại đầu xuân độ
Độ đầu xuân thảo lục như yên,Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên.Dã kính hoang lương hành khách thiểu,Cô chu trấn nhật các sa miên.
Tạm dịch:
Cỏ xuân ở đầu bến đò, xanh biếc như khói,Lại thêm mưa xuân nước tiếp ngang trời.Đường đồng nội vắng tanh, ít người qua lại,Ngày thường chiếc đò cô độc ghếch mái chèo lên bãi cát mà nằm yên.
Lời bình:
Trại đầu xuân độ miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong những ngày đầu xuân tại một vùng trại xa xôi. Nguyễn Trãi khắc họa bức tranh xuân với sự tươi mới và sống động của thiên nhiên, kết hợp với cảm nhận của bản thân về sự khởi đầu của một mùa mới.
Qua bài thơ, tác giả bộc lộ niềm vui và sự hứng khởi trước vẻ đẹp tinh khôi của mùa xuân, đồng thời cũng thể hiện niềm hy vọng về một khởi đầu tốt đẹp cho cuộc đời và công việc. Tinh thần lạc quan và sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên được thể hiện rõ nét trong từng câu chữ.
Đề Lư thị gia phả
Tích khánh nguyên lai tự hữu ky (cơ),Súc hoành phát cự khả tiên tri.Thi thư tuấn trạch phương du viễn,Trung hiếu truyền gia huấn vĩnh di.Thuỷ mộc tất tòng nguyên bản thỉ,Hoàng kim hà dụng tử tôn di.Phần hương nhất độc công gia phổ,Túc túc linh nhân khởi kính ti (tư).
Tạm dịch:
Giữ được phước trước nay vẫn có nguồn gốc, nguyên doPhước dày lớn phát ra có thể đoán trước đượcNền thì thư thấm nhuần, hương thơm vượt xaSự trung hiếu gia truyền còn lại mãi mãiNước và cây hẳn phải từ cội nguồn đầu tiênBạc vàng lưu lại cho con cháu để làm gì?Khi đốt hương đọc gia phổ của ngàiKhiến lòng cung kính của con người (tôi) khởi dậy.
Lời bình:
Bài thơ này là một tác phẩm lịch sử và văn hóa, trong đó Nguyễn Trãi ghi lại gia phả của họ Lư để lưu truyền cho thế hệ sau. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện lòng kính trọng đối với tổ tiên mà còn phản ánh quan niệm về giá trị của lịch sử và truyền thống gia đình.
Đây là một tác phẩm quan trọng để hiểu về phong tục tập quán và ý nghĩa của việc lưu giữ truyền thống văn hóa trong xã hội phong kiến.
Lam quan hoài cổ
Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,Sóc phong xuy khởi mãn Lam Quan.Quân vương tằng thử tư trung gián,Chướng hải dao quan thất mã hoàn.
Lam quan hoài cổ
Tạm dịch:
Đi mãi tận nghìn non vạn núiNgọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam QuanVì vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trungTừng có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.
Lời bình:
Lam quan hoài cổ là bài thơ thể hiện sự tiếc nuối về quá khứ và những kỷ niệm gắn bó với Lam Quan, một vùng đất mà Nguyễn Trãi đã gắn bó trong một thời gian dài. Bài thơ phản ánh nỗi buồn và sự hoài niệm về những ngày xưa, khi mà cuộc sống còn đơn giản và thanh bình.
Nguyễn Trãi bày tỏ sự luyến tiếc về thời gian trôi qua và sự thay đổi của cuộc đời.
Bạch Đằng hải khẩu
Sóc phong xung hải khí lăng lăng,Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng.Ngạc đoạn kình khoa sơn khúc khúc,Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng.Quan hà bách nhị do thiên thiết,Hào kiệt công danh thử địa tằng.Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ,Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.
Tạm dịch:
Xem thêm : Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm – Tiểu sử, sự nghiệp sáng tác và nhận định
Cửa biển lồng lộng, gió bấc thổi băng băng;Buồm thơ nhẹ lướt qua sông Bạch Đằng.Nhìn núi từng khúc, như cá mập, cá sấu bị chặt từng đoạn,Nhìn bờ từng lốp, như giáo kích gươm đao bị gãy chìm.Cảnh núi sông hiểm yếu, tạo ra cái thế “lấy ít địch nhiều”,Ðây là nơi hào kiệt từng lập nên công danh oanh liệt.Việc xưa nghĩ lại, ôi tất cả đã qua rồi!Tới đây viếng cảnh, nỗi lòng sao biết nên chăng?
Lời bình:
Bạch Đằng hải khẩu viết về chiến thắng lịch sử của quân dân Đại Việt tại sông Bạch Đằng. Nguyễn Trãi miêu tả cảnh chiến đấu và sự anh dũng của quân đội trong trận chiến quyết định.
Bài thơ không chỉ ca ngợi chiến công mà còn thể hiện lòng tự hào dân tộc và sự tôn vinh những người đã hy sinh vì đất nước. Đây là một bản anh hùng ca vĩ đại, phản ánh tinh thần yêu nước và sự kiên cường của dân tộc.
Bảo kính cảnh giới bài 43
Rồi hóng mát thuở ngày trường,Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,Hồng liên trì đã tịn mùi hương.Lao xao chợ cá làng ngư phủ,Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Lời bình:
Trong bài thơ, Nguyễn Trãi tiếp tục thể hiện quan điểm triết lý của mình về cuộc đời và những giá trị đạo đức. Bảo kính cảnh giới là một tập hợp các bài thơ chứa đựng những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống và sự tu thân, dưỡng tính.
Bài thơ này đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ gìn đạo đức và trí tuệ trong cuộc sống, đồng thời cảnh báo về những cạm bẫy của thế gian.
Ngự chế tao ngộ thi phụng họa
Phảng phất quân thiên mộng kỷ hồi,Sơn trung kinh hỷ thuý hoa lai.Di châm thâm cảm tiên triều cựu,Định sách đa tâm tá trị tài.Tự hạnh nhàn thân khâu hác chí,Cảm ngôn vô địa khởi lâu đài.Hồ sơn tao ngộ thần du lạc,Vũ lộ xuân đàm nhuận liễu mai.
Tạm dịch:
Đã bao lần trong mộng tưởng lòng hướng về ngôi cao,Khắp vùng núi, vừa sợ vừa mừng thấy kiệu thuý hoa tới.Khắc sâu lời thánh đế răn bầy tôi triều trước,Lòng muốn định nhiều sách lược mà thẹn vì bất tài.Riêng may được thân nhàn, chí ở nơi gò đống, hang động,Đâu dám nghĩ đến việc không có đất để dựng lâu đài.Núi hồ nhân gặp gỡ bất ngờ, nơi nơi vui vẻ đón chào nhà vua đến thăm,Mưa móc ngày xuân thắm đầm đìa khóm liễu mai.
Lời bình:
Bài thơ là ví dụ điển hình của việc Nguyễn Trãi phụng họa theo lời chế của vua, thể hiện sự tôn trọng đối với hoàng đế và trí tuệ chính trị. Bài thơ không chỉ thể hiện khả năng thơ ca của Nguyễn Trãi mà còn phản ánh sự khéo léo trong việc kết hợp giữa nghệ thuật và chính trị.
Qua bài thơ, ông bày tỏ sự trung thành và lòng yêu nước, đồng thời góp phần vào việc xây dựng hình ảnh vĩ đại của triều đại.
Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam nhị tử tôn giáo thụ Thái Bình
Nhân sinh thập lự cửu thường quai,Thịnh thế thuỳ tri hữu khí tài.Pha lão tích tằng Đam Nhĩ khứ,Trường Canh diệc hướng Dạ Lang lai.Văn chương tự cổ đa vi luỵ,Thi tửu tòng kim thả phóng hoài.Hội đãi kim kê khai xá nhật,Ngũ vân thâm xứ đổ Bồng Lai.
Tạm dịch:
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chínBuổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năngPha lão xưa từng đi đày tại Đam NhĩTrường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ LangTừ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵNay ta lại càng trở lại với thơ rượuChờ mong ngày mở hội đại xá kim kêTại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh Bồng Lai
Lời bình:
Đây là món quà tinh thần mà Nguyễn Trãi gửi tặng ba nhân vật vĩ đại trong lịch sử triết học Trung Hoa: Khổng Tử, Nhan Tử, và Mạnh Tử. Bài thơ bày tỏ lòng kính trọng đối với các bậc thầy triết học và những tư tưởng của họ.
Nguyễn Trãi không chỉ tôn vinh những đóng góp của họ đối với trí thức nhân loại mà còn thể hiện niềm tự hào về văn hóa và triết lý của thời đại mình. Bài thơ còn phản ánh mong muốn của ông về sự hòa bình và thịnh vượng cho đất nước.
Những bài thơ của Nguyễn Trãi bằng chữ Nôm
Bên cạnh thơ chữ Hán, Nguyễn Trãi có không ít tác phẩm thơ được viết bằng chữ Nôm. Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu nhất bạn không thể bỏ qua:
Cúc
Người đua nhan sắc thuở xuân dương,Nghỉ chờ thu, cực lạ dường.Hoa nhẵn rằng đeo danh ẩn dật,Thức còn thông bạn khách văn chương.Tính thanh nào đoái bề ong bướm,Tiết muộn chẳng nài thuở tuyết sương.Dầu thấy xuân lan cùng lọn được,Ai ai đều có mấy mùi hương.
Lời bình:
“Cúc” miêu tả vẻ đẹp giản dị và thanh tao của hoa cúc. Nguyễn Trãi dùng hình ảnh hoa cúc để thể hiện sự yên bình và thanh thản trong tâm hồn, cũng như bày tỏ sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa cúc mà còn phản ánh triết lý sống của tác giả, với lòng quý trọng những giá trị đơn sơ và bền bỉ trong cuộc sống.
Tự thán
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay.Chắc chi thiên hạ đời nay,Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.Đã buồn về trận mưa rào,Lại đau về nỗi ào ào gió đông.Mây trôi nước chảy xuôi dòng,Chiếc thuyền hờ hững bên sông một mình.
Lời bình:
Tự thán là bài thơ thể hiện nỗi lòng của Nguyễn Trãi về cuộc đời và số phận của chính mình. Trong bài thơ, tác giả tự phê phán và tự than về những hạn chế và thất bại cá nhân. Đây là một tác phẩm đầy cảm xúc, phản ánh sự tự vấn và suy tư sâu sắc về cuộc sống và con người, đồng thời cho thấy sự khiêm nhường và sự tự nhận thức của tác giả.
Răn sắc
Sắc là giặc, đam làm chi,Thuở trọng còn phòng có thuở suy.Trụ mất quốc gia vì Đát Kỷ,Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi.Bại tan gia thất đời từng thấy,Tổn hại tinh thần sự ích chi.Phu phụ đạo thường chăng được chớ,Nối tông hoà phải một đôi khi.
Lời bình:
Bài thơ Răn sắc là tác phẩm có tính chất giáo huấn, trong đó Nguyễn Trãi nhắc nhở về sự phù du và tạm bợ của sắc đẹp. Ông khuyên rằng không nên quá chú trọng vào vẻ ngoài mà cần quan tâm đến phẩm hạnh và đạo đức.
Bài thơ mang thông điệp rõ ràng về việc giữ gìn những giá trị bên trong và sự sống đúng đắn, phản ánh quan điểm của tác giả về đạo đức và nhân cách.
Cuối xuân
Tính từ gặp tiết lương thần,Thiếu một hai mà no chín tuần.Kiếp thiếu niên đi thương đến tuổi,Ốc dương hoà lại ngõ dừng chân.Vườn hoa khóc, tiếc mặt Phi tử,Trì cỏ tươi, nhưng lòng tiểu nhân.Cầm đuốc chơi đêm này khách nói,Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân.
Cuối Xuân
Lời bình:
Cuối xuân thể hiện cảm xúc của Nguyễn Trãi về sự kết thúc của mùa xuân. Bài thơ không chỉ mô tả cảnh sắc mùa xuân tàn mà còn chứa đựng những suy ngẫm về thời gian và sự thay đổi. Nguyễn Trãi bộc lộ sự tiếc nuối và cảm nhận sâu sắc về sự vô thường của thiên nhiên và cuộc đời, đồng thời thể hiện sự trân trọng những khoảnh khắc quý giá của cuộc sống.
Hoa xuân
Và tháng hạ thiên bóng nắng dài,Thu đông lạnh lẽo cả hoà hai.Đông phong từ hẹn tin xuân đến,Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi.
Lời bình:
Hoa xuân ca ngợi vẻ đẹp của hoa trong mùa xuân, thể hiện sự vui tươi và sinh động của thiên nhiên vào thời điểm này. Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh hoa để phản ánh niềm vui và sự tươi mới của cuộc sống, đồng thời thể hiện sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Bài thơ mang đến cảm giác nhẹ nhàng và lạc quan, làm nổi bật vẻ đẹp của mùa xuân.
Cảnh hè
Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.Lại có hoè hoa chen bóng lục,Thức xuân một điểm não lòng nhau.
Lời bình:
Trong bài thơ Cảnh hè, Nguyễn Trãi mô tả vẻ đẹp và cảm giác của mùa hè với những đặc trưng riêng. Bài thơ không chỉ phản ánh cảnh sắc mùa hè mà còn thể hiện cảm xúc và tâm trạng của tác giả đối với mùa này.
Hình ảnh thiên nhiên trong mùa hè được miêu tả rõ nét, làm nổi bật sự sống động và sức mạnh của cuộc sống trong thời gian này.
Trăng thu
Đông đã muộn lại sang xuân,Xuân muộn thì hè lại đổi lần.Tính kể tư mùa có nguyệt,Thu âu là nhẫn một hai phần.
Lời bình:
Trăng thu là bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của trăng thu, một chủ đề quen thuộc trong văn học cổ điển. Nguyễn Trãi mô tả vẻ đẹp của trăng thu với sự thanh tĩnh và huyền bí, đồng thời thể hiện cảm xúc của mình đối với cảnh vật. Bài thơ mang đến một cảm giác nhẹ nhàng và sâu lắng, phản ánh tâm trạng hòa quyện với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thơ mai
Giữa mùa đông, lỗi thức xuân,Nam chi nở cực thanh tân.Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch,Đáy nước ngờ là mặt Thái Chân.Càng thuở già, càng cốt cách,Một phen giá, một tinh thần.Người cười rằng kém tài lương đống,Thửa việc điều canh bội mấy phần.
Lời bình:
Thơ mai miêu tả vẻ đẹp của hoa mai, một hình ảnh thường xuất hiện trong văn học truyền thống. Nguyễn Trãi sử dụng hoa mai để thể hiện sự thanh cao và bền bỉ, đồng thời bày tỏ những cảm xúc về sự bình yên và hòa hợp với thiên nhiên. Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của hoa mà còn phản ánh triết lý sống của tác giả.
Lời mở đầu
Đặt quyển sách, vắt tay nằm nghĩ,Hễ làm người dạy kỹ thì nên,Phấn son cũng phải bút nghiên,Cũng nhân tâm ấy há thiên lý nào.
Lời bình:
Lời mở đầu là một phần giới thiệu cho một tập thơ lớn của Nguyễn Trãi. Trong bài thơ, tác giả thể hiện mục đích và ý nghĩa của tác phẩm, đồng thời bày tỏ sự kỳ vọng của mình về việc truyền đạt những ý tưởng và cảm xúc qua thơ ca.
Bài thơ mang tính chất mở đầu và giới thiệu, đồng thời tạo dựng nền tảng cho các tác phẩm tiếp theo.
Dạy vợ con
5. Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ,Làm bài ca dạy vợ nhủ con:Lời ăn nết ở cho khôn,Chớ nên đa quá, đa ngôn chút nào!Ăn mặc chớ mỹ miều chải chuốt,10. Hình dung đừng ve vuốt ngắm trông,Một vừa hai phải thì xong,Giọt dài giọt ngắn cũng không ra gìKhi đứng ngồi chứ hề lơ lẳng,Tiếng nhục nhằn nữa nặng đến mình,15. Hạt mưa chút phận lênh đênh,Tấm son tạc lấy chữ trinh làm đầu.Kìa mấy kẻ làu làu tiết ngọc,Đem sắt đanh nguyện lúc lửa châm.Con hiền cha mẹ an tâm,20. Một nhà khen ngợi, nghìn năm bia truyền.Nọ những kẻ nước nguyền non hẹn,Thấy mùi hoa bướm nghển, ong chào,Miệng đời dê diếu biết bao,Đông ra quốc pháp, nhục vào gia thanh25. Đem người trước lấy mình ngắm lại,Khôn ba năm đừng dại một giờ,Đua chi chén rượu câu thơ,Thuốc lào ngọt nhạt, nước cờ thấp cao.Đám dồi mỏ ra vào săn sóc,30. Lại bài phu, tam cúc, đánh đinh,Đố mười, chẵn lẻ, đố kinh,Tổ tôm, kiệu chắn, sám quanh tứ chiều.Đi đứng đắn, chớ điều vùng vẫy,Khi tối tăm đèn phải phân minh,35. Hoặc khi hội hát linh đình,Được lời dạy đến thì mình hãy ra,Ra phải có mẹ già em nhỏ,Đừng đánh đàn, đánh lũ không hay.Nói đừng chau mặt, chau mày,40. Nghe ra ngậm đắng nuốt cay hay nào!Của tằn tiện, chắt chiu hàn gắn,Khách buôn tàu chưa hẳn nơi đây!Cũng đừng vắt nước cổ chày,Tiếp tân tế lễ là ngày nên hoang.45. Ăn ở chớ lòng mang khoảnh khắc,Mua bán đừng điêu trác đong đưa.Mua đừng ráo riết quá lừa,Bán đừng bo xiết, ích ta hại người.Chớ tắt mắt của người kém cỏi,50. Đừng đảo điên có nói làm không.Giàu sang cũng chớ khoe ngông,Miễn mình ấm phận chớ lòng khinh ai.Khó khăn chớ vật nài oán hối,Hết bĩ rồi tới buổi thái lai55. Cầm cân, tạo hoá đổi dời,Giàu ba họ, khó ba đời mấy ai?Đừng học cách tham lời đặt lãi,Lợi kẻ cho thì hại kẻ vay,Dễ dàng nợ phải lay nhay,60. Đến đầu đũa quá, e cay đắng nhiều.Hoặc lỡ thiếu phải điều lĩnh tạm,Dù ít nhiều liệu sớm tính xong,Chẳng nên mê mẩn hơi đồng,Qua lần cho khỏi thì lòng mới nguôi.65. Thói mách lẻo, ngồi rồi bỏ hết,Hễ điều gì nói ít mới hay,Lân la giắt rợ, giắt rây,Đã hư công việc, lại dày tiếng tăm.Việc chợ búa chăm chăm chúi chúi,70. Buổi bán xong liệu vội ra về,Cửa nhà trăm việc sớm khuya,Thu va thu vén mọi bề mới xong.Phòng những kẻ có lòng gian vặt,Nhỡ xảy ra một mất mười ngờ,75. Tiếc thầm đứng ngẩn, ngồi ngơ,Đau buồn thôi lại đổ cho tại trời.Từ chốn ở, nơi ngồi thay thảy,Rác ngập đường nhìn vậy chan chan,Ai vào rác ngập ước chân,80. Bát mâm tơi tả chiếu chăn đầy giường,Tuy khó rách, giữ gìn thơm sạch,Có hay gì chiếu lệch bụi nhơ,Đồ ăn thức nấu cho vừa,Thường thường giữ lấy muối dưa ngon lành.85. Nghề bánh trái chiều thanh vẻ lịch,Cũng học dần thói cách người ta,Vá may giữ nếp đàn bà,Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.Thủa tại gia phải tòng phụ giáo90. Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyênLại là hiếu với tổ tiên,Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.Đồ cúng cấp hương trà tinh khiết,Theo lễ nghi khép nép, khoan thai,95. Ăn nhiều ăn ít cho rồi,Nhớ điều ghẻ lạnh lễ thôi lại về.
Lời bình:
Dạy vợ con chứa đựng những lời khuyên và giáo huấn của Nguyễn Trãi dành cho vợ và con cái. Bài thơ thể hiện những quan điểm của tác giả về vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đạo đức và sự tu dưỡng trong cuộc sống gia đình.
Xem thêm : Tuyển tập thơ thả thính tên Phúc độc đáo giúp bạn cưa đổ crush
Bài thơ không chỉ là một bài học về gia đình mà còn phản ánh quan điểm của Nguyễn Trãi về giáo dục và đạo đức.
Dạy con trai
Nhắn bảo phô bay đạo cái con,Nghe lượm lấy, lọ chi đòn.Xa hoa lơ lãng nhiều hay hết,Hà tiện đâu đang ít hãy còn.Áo mặc miễn là cho cật ấm,Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon.Xưa đã có câu truyền bảo:Làm biếng hay ăn lở non.
Lời bình:
Dạy con trai tiếp tục chủ đề giáo huấn của Nguyễn Trãi, nhưng tập trung vào việc dạy bảo con trai. Bài thơ cung cấp những lời khuyên về cách cư xử và phẩm hạnh, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc rèn luyện đức tính và trí tuệ.
Nguyễn Trãi thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến việc hình thành nhân cách và đạo đức cho con cái, phản ánh giá trị của giáo dục trong xã hội phong kiến.
Thủ vĩ ngâm
Góc thành Nam, lều một gian,No nước uống, thiếu cơm ăn.Con đòi trốn, dường ai quyến,Bà ngựa gầy, thiếu kẻ chăn.Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn.Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải,Góc thành Nam, lều một gian.
Thủ vĩ ngâm
Lời bình:
Thủ vĩ ngâm thể hiện sự yêu thích của Nguyễn Trãi đối với âm nhạc và cây đàn. Bài thơ miêu tả những cảm xúc và suy nghĩ của tác giả khi chơi đàn, đồng thời thể hiện sự kết hợp giữa nghệ thuật và tâm trạng.
Tác giả đã sử dụng hình ảnh cây đàn để bày tỏ niềm vui và sự thư giãn trong cuộc sống, đồng thời phản ánh sự nhạy cảm và tinh tế của bản thân.
Thuật hứng bài 24
Công danh đã được hợp về nhàn,Lành dữ âu chi thế ngợi khen.Ao cạn vớt bèo cấy muống,Trì thanh phát cỏ ương sen.Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,Thuyền chở yên hà nặng vạy then.Bui có một lòng trung liễn hiếu,Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.
Lời bình:
Thuật hứng bài 24 là tác phẩm thuộc tập thơ Thuật hứng của Nguyễn Trãi, nơi tác giả bày tỏ những cảm xúc và suy ngẫm của mình về cuộc sống và thiên nhiên. Trong bài thơ này, Nguyễn Trãi chia sẻ những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của cảnh vật và tâm trạng của con người.
Bài thơ thể hiện sự hòa quyện giữa cảm xúc cá nhân và thiên nhiên, đồng thời bộc lộ triết lý sống của tác giả.
Ghẹo cô hàng chiếu
Ả ở đâu ta bán chiếu gon,Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?Xuân thu phỏng độ chừng bao tuổi,Đã có chồng chưa, được mấy con?
Lời bình:
Ghẹo cô hàng chiếu mang tính chất vui nhộn và dí dỏm, trong đó Nguyễn Trãi sử dụng hình ảnh một cô gái bán chiếu để thể hiện sự hài hước và tinh tế của mình. Bài thơ không chỉ phản ánh sự khéo léo trong việc sử dụng ngôn từ mà còn bày tỏ sự quan sát tinh tế về cuộc sống thường nhật.
Nguyễn Trãi thể hiện khả năng quan sát và miêu tả sắc sảo, đồng thời tạo ra một tác phẩm vừa vui nhộn vừa mang tính chất xã hội.
Các tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi khác
Những bài thơ của Nguyễn Trãi hay và được lưu truyền muôn đời là việc không phải bàn cãi. Vậy những tác phẩm văn xuôi chính luận khác của ông thì sao? Cùng theo dõi 3 tác phẩm văn chính luận, sách lịch sử và địa lý mà Nguyễn Trãi để lại cho thế hệ sau để hiểu rõ hơn:
Dư địa chỉ
Lời bình:
Dư địa chí của Nguyễn Trãi là một tác phẩm quan trọng trong lĩnh vực địa lý của Việt Nam thời kỳ phong kiến. Được viết trong thế kỷ XV, tác phẩm này không chỉ ghi chép về các đặc điểm địa lý, phong tục tập quán của các vùng đất mà còn phản ánh sự hiểu biết sâu rộng của tác giả về đất nước.
Nguyễn Trãi đã mô tả một cách chi tiết các vùng miền, cảnh quan, và tài nguyên thiên nhiên, đồng thời thể hiện sự quan tâm đến sự phát triển và quản lý tài nguyên của đất nước. “Dư địa chí” không chỉ có giá trị thực tiễn mà còn góp phần xây dựng cơ sở cho nền văn học địa lý của Việt Nam.
Lam Sơn thực lực
Lời bình:
Lam Sơn thực lục là một tác phẩm lịch sử quan trọng ghi lại những sự kiện và chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi. Nguyễn Trãi, với vai trò là một nhà chính trị và quân sự xuất sắc, đã viết tác phẩm này để ghi nhớ những chiến thắng và những khó khăn của cuộc kháng chiến.
Tác phẩm không chỉ cung cấp một cái nhìn chi tiết về các chiến dịch quân sự mà còn thể hiện lòng yêu nước và tinh thần kiên cường của nhân dân Việt Nam. “Lam Sơn thực lục” là một tài liệu quý giá cho nghiên cứu lịch sử và là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau.
Bình Ngô Đại Cáo
Bình Ngô đại cáoĐại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,Điếu phạt chi sư, mạc tiên khử bạo.Duy, ngã Đại Việt chi quốc,Thực vi văn hiến chi bang.Sơn xuyên chi phong vực ký thù,Nam bắc chi phong tục diệc dị.Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.Kê chư vãng cổ,Quyết hữu minh trưng.Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.Chí sử nhân tâm chi oán bạn.Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.Hân thương sinh ư ngược diễm,Hãm xích tử ư hoạ khanh.Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,Điển vật chức thuý cầm chi võng la.Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.Châu lý chi chinh dao trọng khốn,Lư diêm chi trữ trục giai không.Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.Thần dân chi sở cộng phẫn,Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:Phấn tích Lam Sơn,Thê thân hoang dã.Niệm thế thù khởi khả cộng đới,Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.Đồ hồi chi chí,Ngộ mị bất vong.Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:Nhân tài thu diệp,Tuấn kiệt thần tinh.Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.Phẫn hung đồ chi vị diệt,Niệm quốc bộ chi tao truân.Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.Bồ Đằng chi đình khu điện xế,Trà Lân chi trúc phá hôi phi.Sĩ khí dĩ chi ích tăng,Quân thanh dĩ chi đại chấn.Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,Bản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.Ngã toại nghênh nhận nhi giải,Bỉ tự đảo qua tương công.Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.Viên tuyển tì hưu chi sĩ,Thân mệnh trảo nha chi thần.Ẩm tượng nhi hà thuỷ càn,Ma đao nhi sơn thạch quyết.Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.Quyết hội nghĩ ư băng đê,Chấn cương phong ư cảo diệp.Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thuỷ.Phong vân vị chi biến sắc,Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thuỷ vị chi ô yết;Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi do thả hồn phi phách tán;Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc nhi ích tự cổ lật tâm kinh.Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;Dư dĩ toàn quân vi thượng, nhi dục dân chi đắc tức.Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.Xã tắc dĩ chi điện an,Sơn xuyên dĩ chi cải quan.Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,Vu dĩ tuyết thiên địa vô cùng chi sỉ.Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Ô hô!Nhất nhung đại định, hất thành vô cạnh chi công;Tứ hải vĩnh thanh, đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,Hàm sử văn tri.
Tạm dịch:
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,Để trong nước lòng dân oán hận.Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.Nặng nề những nổi phu phen,Tan tác cả nghề canh cửi.Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.Lẽ nào trời đất dung tha,Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩaChốn hoang dã nương mìnhNgẫm thù lớn há đội trời chungCăm giặc nước thề không cùng sốngĐau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trờiNếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.Những trằn trọc trong cơn mộng mị,Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồiVừa khi cờ nghĩa dấy lên,Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,Nhân tài như lá mùa thu,Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.Phần vì giận quân thù ngang dọc,Phần vì lo vận nước khó khăn,Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,Lúc Khôi Huyện quân không một đội.Trời thử lòng trao cho mệnh lớnTa gắng trí khắc phục gian nan.Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,Lấy chí nhân để thay cường bạo.Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.Sĩ khí đã hăngQuân thanh càng mạnh.Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặmTụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầuMọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháyMã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạNgờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừngĐồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháyĐinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lạiNăm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phongSau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thựcNgày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thếNgày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầuNgày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vongNgày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung pháBí nước giặc quay mũi giáo đánh nhauLại thêm quân bốn mặt vây thànhHẹn đến giữa tháng mười diệt giặcSĩ tốt kén người hùng hổBề tôi chọn kẻ vuốt nanhGươm mài đá, đá núi cũng mònVoi uống nước, nước sông phải cạn.Đánh một trận, sạch không kình ngạcĐánh hai trận tan tác chim muông.Cơn gió to trút sạch lá khô,Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đườngXương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nướcGhê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khócThành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàngTướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạngThần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinhMã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòngTa lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.Chẳng những mưu kế kì diệuCũng là chưa thấy xưa nayXã tắc từ đây vững bềnGiang sơn từ đây đổi mớiCàn khôn bĩ rồi lại tháiNhật nguyệt hối rồi lại minhNgàn năm vết nhục nhã sạch làuMuôn thuở nền thái bình vững chắcÂu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,Nên công oanh liệt ngàn nămBốn phương biển cả thanh bình,Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,Ai nấy đều hay.
Lời bình:
Bình Ngô đại cáo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Nguyễn Trãi, được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam. Viết vào năm 1428, tác phẩm này không chỉ tuyên bố chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn trước quân Minh mà còn khẳng định sự độc lập và chủ quyền của Đại Việt.
Với ngôn từ sắc sảo và lối viết súc tích, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự kiên định và lòng yêu nước sâu sắc. Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn bản chính trị quan trọng mà còn là một kiệt tác văn học, góp phần khẳng định giá trị và quyền tự chủ của dân tộc Việt Nam trong lịch sử.
Lời kết
Tác phẩm Nguyễn Trãi bao gồm nhiều thể loại, trong đó thơ ca và văn chính luận được yêu thích nhất. Dù đã đi xa nhưng ông để lại cho nền văn học Việt Nam một kho tàng tác phẩm đồ sộ. Các tác phẩm này vẫn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày nay.
Nguồn: https://tuyengiaothudo.vn
Danh mục: Thơ