Mặc dù Windows vẫn là hệ điều hành phổ biến nhất đối với người dùng thông thường, nhưng chắc chắn rằng phần lớn các hệ thống chuyên nghiệp – máy chủ internet, siêu máy tính, tàu vũ trụ thám hiểm không gian – đều chạy trên Linux. Đó là chưa kể đến hàng tỷ điện thoại thông minh khác và hàng triệu xe điện trên toàn thế giới cũng đang chạy trên nền tảng này.
- Sạc dự phòng 5000mAh sạc được mấy lần. Sạc bao lâu thì đầy?
- Nhìn lại giới vlogger Việt đời đầu, kẻ biến mất, người trở lại với hình ảnh khác lạ
- Tạo thử thách “ghép đôi” giấu mặt cho cô gái gợi cảm và chàng trai xa lạ, anh chàng Youtuber kiếm được nửa triệu view chỉ sau ít giờ đăng tải
- Hình ảnh cá nhân bị lợi dụng, Độ Mixi tuyên bố đã có cách “phản đòn” nhưng nước đi của kẻ gian mới gây bất ngờ
- Ngắm nhìn nhan sắc thuần khiết của hot girl tài xế gợi cảm nhất Nhật Bản, tốt nghiệp đại học nhưng lựa chọn lái taxi để mưu sinh
Thành công này không chỉ nhờ vào bản chất mã nguồn mở của Linux mà so với Windows, nhân hệ điều hành này có một ưu điểm rất đặc biệt khiến chúng phù hợp với các hệ thống chuyên nghiệp: tính ổn định.
Bạn đang xem: Tại sao Windows vẫn đang ở dưới Trái Đất, còn Linux đã đi ra vũ trụ và đến tận Sao Hỏa?
Trong khi Windows nổi tiếng vì thỉnh thoảng xuất hiện màn hình xanh chết chóc khi hệ thống gặp phải một số vấn đề bất thường, cũng như thường xuyên khởi động lại sau một thời gian sử dụng, hoặc sau khi cập nhật hoặc thậm chí chỉ cần cài đặt một phần mềm, Linux có thể chạy liên tục trong nhiều ngày, nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm mà không cần phải khởi động lại.
Trực thăng thám hiểm sao Hỏa chạy trên Linux, không phải Windows
Điều gì làm cho Linux trở nên cực kỳ ổn định?
Theo Melvin Menezes, một nhà khoa học máy tính chuyên về hệ điều hành phân tán, khả năng này nằm ở các nguyên tắc cơ bản trong triết lý thiết kế của Linux, được thừa hưởng từ hệ điều hành UNIX.
Trên thực tế, mọi dòng mã đều có khả năng gây ra lỗi và hiện tại hầu như không có cách nào để tránh chúng. Nói cách khác, mọi hệ điều hành đều có khả năng gây ra lỗi. Cách tốt nhất để giảm khả năng đó là thu nhỏ kích thước của chính hệ điều hành. Bất kể kỹ thuật lập trình nào, việc tăng kích thước của hệ điều hành sẽ làm tăng theo cấp số nhân khả năng xuất hiện lỗi.
Linux – giống như các hệ điều hành khác trong họ UNIX – giải quyết vấn đề này bằng cách xác định các tính năng cốt lõi nhất của một hệ điều hành – chủ yếu là quản lý và phân bổ tài nguyên – và giới hạn hệ điều hành chỉ với các tài nguyên đó. Nó được coi là hạt nhân của hệ điều hành và được đảm bảo là nhỏ và chặt chẽ nhất có thể.
Xem thêm : Game thủ 7 tuổi vẽ lại hệ thống vũ khí trong PUBG khiến cư dân mạng “há mồm ngã ngửa”
Nhân Linux được tách biệt khỏi các ứng dụng bên ngoài để đảm bảo tính bảo mật và ổn định của hệ thống.
Nó có hầu hết các tính năng cần thiết để đảm bảo tính ổn định và bảo mật của hệ điều hành. Kích thước nhỏ và các điểm vào được xác định và kiểm soát rõ ràng làm cho nó ổn định hơn và khó xâm phạm hệ điều hành hơn khi sử dụng hạt nhân này.
Bất kỳ thành phần nào liên quan đến người dùng đều được giữ bên ngoài hạt nhân Linux ở một mức độ nào đó. Các chương trình như vậy gửi yêu cầu tài nguyên đến hạt nhân Linux khi cần thông qua API. Nhưng hạt nhân Linux là trọng tài cuối cùng của các yêu cầu tài nguyên này.
Cách tiếp cận của Windows
Trong khi đó, cách tiếp cận Windows lại đi theo hướng ngược lại. Ngay từ đầu (Windows 3), không có khái niệm về hạt nhân hệ điều hành. Bất kỳ chương trình người dùng nào cũng có thể yêu cầu tài nguyên trực tiếp từ các cấp thấp nhất của API hệ thống và thiết bị.
Điều này dường như bắt đầu thay đổi với Windows NT dưới thời Dave Cutler, một nỗ lực áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên hạt nhân đã được giới thiệu. Tuy nhiên, tác động của nó bị hạn chế vì nó xung đột với cách tiếp cận thị trường của Microsoft.
Phải đến Windows NT thì phương pháp dựa trên nhân mới được Microsoft áp dụng cho Windows.
Vào thời điểm đó, mục tiêu của Microsoft không chỉ là kiểm soát thị trường hệ điều hành mà còn cung cấp càng nhiều chương trình cho người dùng càng tốt.
Với cách tiếp cận dựa trên hạt nhân, cho dù đó là ứng dụng của bên thứ ba của người dùng hay ứng dụng đi kèm với hệ điều hành, họ đều có quyền truy cập ngang nhau vào tài nguyên hệ thống. Nếu bạn không thích trình biên dịch Unix cc, bạn có thể mua một trình biên dịch hoặc tự viết. Nếu bạn không thích hạt nhân Linux, bạn có thể sử dụng Korn Shell hoặc Bourne Shell hoặc bất kỳ thứ gì bạn muốn. Bất kỳ chương trình nào bạn mua hoặc viết đều có quyền truy cập ngang nhau vào tài nguyên như phần mềm đi kèm với hệ điều hành.
Trong khi đó, Microsoft muốn các chương trình của riêng mình có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh và họ đã làm điều này bằng cách từ từ di chuyển các chương trình của người dùng vào nhân hệ điều hành. Điều này giúp các chương trình của riêng họ có quyền truy cập vô song vào các tài nguyên hệ thống – nhưng nó cũng mang lại rắc rối pháp lý chống độc quyền cho Microsoft.
Xem thêm : Vì sao các nhà mạng tại Việt Nam luôn nhắn tin không dấu cho người dùng?
Ví dụ rõ ràng nhất là trình duyệt Internet Explorer trong Windows. Nếu không được đóng gói cùng với hệ điều hành, nó sẽ không thể cạnh tranh với Netscape. Vào thời điểm đó, Internet chậm và việc cài đặt phần mềm của bên thứ ba rất tốn kém. Tuy nhiên, nó vẫn tiện lợi hơn là chạy đến cửa hàng máy tính và mua đĩa cài đặt. Với Internet Explorer được cài đặt sẵn trong Windows, Netscape nhanh chóng thua cuộc chiến giành thị phần với Microsoft. Hơn nữa, việc có quyền truy cập ưu tiên vào tài nguyên hệ thống cũng giúp IE khởi động nhanh hơn đối thủ.
Nhưng khi bị cáo buộc lạm dụng vị thế độc quyền để tăng thị phần của các chương trình dành cho người tiêu dùng, Microsoft có thể lập luận rằng họ không bán trình duyệt cho người tiêu dùng, vì Internet Explorer là “một phần của hệ điều hành”. Điều này khiến Windows trông giống như một hệ điều hành có nhân giống như Linux.
Đổi sự an toàn lấy sự tiện lợi
Thật không may, lợi thế kinh doanh này không phải là lợi thế kỹ thuật. Trong Linux, ngay cả khi bạn có thể xâm phạm trình duyệt, bạn sẽ không thể xâm phạm hạt nhân hệ điều hành. Nhưng trong Windows, đó lại là một câu chuyện khác.
Có quá nhiều chương trình người dùng được tích hợp vào nhân Windows đến nỗi nếu một chương trình bị xâm phạm, tin tặc có thể mở đường thẳng vào trung tâm của hệ điều hành. Một chương trình chạy thất thường trong Linux vẫn có thể bị nhân dừng mà không ảnh hưởng đến tính ổn định của hệ thống. Trong Windows, một chương trình người dùng không ổn định sẽ ảnh hưởng đến tính ổn định của toàn bộ hệ điều hành.
Nhưng công bằng mà nói, tính bảo mật hoặc tính ổn định thường đi kèm với sự đánh đổi tính dễ sử dụng. Điều tương tự cũng có thể nói đối với Linux hoặc Windows. Hệ điều hành của Microsoft có xu hướng dễ sử dụng hơn Linux. Ví dụ, với Linux, bạn không thể chỉ tải xuống và chạy một tệp exe. Trên Linux, các tệp này không thể được thực thi mà không có sự cho phép của người dùng, nhưng trên Windows thì có thể.
Đó cũng là lý do tại sao Linux phù hợp hơn với người dùng chuyên nghiệp, những người biết chính xác những gì họ cần làm với hệ thống của mình.
Nói cách khác, phương pháp tiếp cận hạt nhân nhẹ của Linux làm cho các hệ thống dựa trên nó ổn định hơn, đặc biệt phù hợp với các ứng dụng cho các hệ thống quan trọng như internet, trung tâm dữ liệu hoặc thậm chí là tàu vũ trụ. Tính ổn định của nó được cải thiện hơn nữa khi được xây dựng và vận hành bởi những người dùng chuyên nghiệp biết họ cần gì cho hệ thống của mình.
Tham khảo Quora
Nguồn: https://tuyengiaothudo.vn
Danh mục: Tin tức