20 + Bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay không thể bỏ qua

Thơ Huỳnh Văn Nghệ chủ yếu viết về chủ đề kháng chiến và người lính. Ông có một hồn thơ đẹp, cốt cách lạ lùng vừa hồn hậu lại vừa mạnh mẽ ngang tàn. Bộ sưu tập những bài thơ, tác phẩm tiêu biểu của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn.

15 bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay nhất

Thơ Huỳnh Văn Nghệ mang nét riêng độc đáo nhưng vẫn chứa đựng nét chung của thời đại như bao nhà thơ cùng thế hệ khác. Ông tập trung khai thác chủ đề chiến trận đến mức “Lòng ta say chiến trận đã thành thơ”.

Dưới đây là tuyển tập 15 tác phẩm hay xuất sắc của thi tướng Huỳnh Văn Nghệ bạn không thể bỏ qua:

1/ Nhớ Bắc

Ai về xứ Bắc ta đi vớiThăm lại non sông giống Lạc HồngTừ độ mang gươm đi mở cõiTrời Nam thương nhớ đất Thăng Long

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!Mà ta con cháu mấy đời hoangVẫn nghe trong máu hồn xa xứNon nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.

Vẫn nghe tiếng hát thời quan họXen nhịp từng câu vọng cổ buồnVẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏMỗi lần phảng phất hương sầu riêng

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quênChinh Nam say bước quá xa miềnKinh đô nhớ lại xa muôn dặmMuốn trở về quê, mơ cảnh tiên.

Ai đi về Bắc xin thăm hỏiHồn cũ anh hùng đất Cổ LoaHoàn Kiếm hồ xưa linh quy hỡiBao giờ mang trả kiếm dân ta

Lời bình: 

Nhớ Bắc là tác phẩm tiêu biểu của Huỳnh Văn Nghệ, thể hiện nỗi nhớ da diết về quê hương miền Bắc, dù ông đang ở chiến khu miền Nam. Bài thơ vừa chân thực, vừa lãng mạn, khơi dậy tình cảm sâu nặng của người con xa quê, thể hiện tình yêu quê hương và lòng trung thành với cách mạng.

Thơ Huỳnh Văn NghệNhớ Bắc – Bài thơ tiêu biểu của Huỳnh Văn Nghệ

2/ Sông Đồng Nai

Đồng Nai sông nước anh hùng.Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu.Lệ tiên kết đọng hồ sâuCòn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng

Xông pha vượt núi băng ngàn,Gặp Là Ngà nghĩa bạn vàng kết đôiThề: “Dù trắc trở núi đồiCũng liều sống thác tìm trời tự do…”

Đôi lòng nặng chí giang hồNgàn thu say bước trở về biển xanh.Đường xa lên thác xuống gànhRuộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa.

Lệ đời tràn ngập hồn thơBao phen lũ hận bẻ bờ đau thương.Gió ngang, thuyền ngược trăm đườngĐồng Nai hoà Thái Bình Dương dâng trào.

Lời bình: 

Sông Đồng Nai là một trong những bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ sở hữu sự hòa quyện giữa dòng chảy thiên nhiên và dòng chảy lịch sử của dân tộc. Tác giả ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông quê hương và nhấn mạnh vai trò của nó trong cuộc kháng chiến, như một biểu tượng của sức mạnh, lòng kiên cường của nhân dân miền Nam

3/ Bà mẹ Việt Nam

Có mặt nước bốn ngàn năm lịch sửBốn ngàn năm tranh sống với thời gianMáu anh hùng tô non sông cẩm túMồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng

Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷGót Cà Mau đầu tận ải Nam QuanCửu Long Giang, buông dài làn sóng tócDựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương.

Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng LạcMột giòng con hăm lăm triệu Tiên RồngCon trung hiếu, trai khôn và gái đẹpCùng mẹ hiền lo xây dựng non sông

Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹpĐồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mangVà âm thầm bao nhiêu vàng, than thépDưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang.

Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phíaKéo về đây thực hiện mộng tham tànTên núi sông trờ thành tên chiến địaChống xâm lăng thành truyền thống nhân dân.

Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩaBầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù.Lũ cướp nước đã bao phen khiếp víaTrở về quê không rửa kịp máu đầu.

Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại.Dù tầm vông phải chọi với xe tăngMẹ vững tin nơi bầy con trung hiếuNgày mai đây diệt chúng cứu giang sơn.

Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạcCủa bình yên sáng lạng tiếng chim quyênSẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hátKhải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.

Lời bình: 

Bà mẹ Việt Nam là tác phẩm thể hiện lòng tri ân sâu sắc của Huỳnh Văn Nghệ đối với những bà mẹ đã hy sinh thầm lặng trong chiến tranh. Bài thơ khắc họa hình ảnh người mẹ Việt Nam nhân hậu, kiên cường, với tấm lòng yêu nước và sự hy sinh lớn lao cho độc lập dân tộc.

4/ Xuân chiến khu

Xuân vẫn về đây giữa chiến khuRừng thông nay bỗng hết âm uNúi non hớn hở thay màu áoSuối biếc ngừng reo mấy nhịp cầu

Ánh sáng tưng bừng trên lá nonChim đồi mát giọng hát véo vonXa xa vọng gác thùng nhịp trốngBướm giật mình bay: những mảnh hồn

Chiến sĩ từng đoàn dưới nắng tươiBên hoa ngồi kể chuyện, nô cười– Xuân sau ăn tết nơi đâu nhỉ?– Tuỳ bóng cờ kia sẽ trả lời!

Phấp phới cờ bay với gió xuânQuân ca từng khúc, nhịp xa gầnTừng đoàn chiến sĩ đi ra trậnCó bướm, chim đưa tận cuối rừng.

Lời bình: 

Xuân chiến khu mang đậm không khí chiến đấu, nhưng vẫn tràn ngập sắc xuân. Tác giả khéo léo miêu tả sự đối lập giữa mùa xuân thiên nhiên và hoàn cảnh gian khổ, đồng thời thổi vào đó niềm tin và hy vọng về một tương lai chiến thắng cho đất nước.

Thơ của Huỳnh Văn NghệXuân chiến khu

5/ Hình ảnh Bác Hồ trong lòng Nam Bộ

Nhớ ngày sau kháng chiến.Giữa thành phố Sài GònMột chiến sĩ bị thương.Lấy máu mình đang chảyTô lên tường năm chữ“Thành phố Hồ Chí Minh”Rồi mới đành lòng tắt thởCuộc kháng chiến bắt đầu từ đóSử Việt Nam, thêm một trang đỏ anh hùng.“Thành phố Hồ Chí Minh”Một lời thề thiêng liêngKhắc sâu bằng chữ đỏTrong lòng người Nam BộNhư máu thắm lòng tim.

Giặc phá huỷ miếu đìnhĐốt nhà thờ, trường họcKhông làm sao đốt đượcHình ảnh Bác trong lòng dânHình ảnh Bác khắp nơiTheo dân đi kháng chiếnKhắp bưng biền, rừng thẳmThờ bên ảnh đức Chúa TrờiBên cạnh Phật Thích CaTrong ba lô chiến sĩTrong cặp vở học tròTrong bức tranh hoạ sĩTrong vần điệu nhà thơGiữa cơ quan, đơn vịSao mắt Bắc sáng ngờiTruyền niềm tin, dũng khí.Khẩu hiệu thành tiếng sétKết thúc những mít tinh“Hồ Chí Minh muôn năm!”Khẩu hiệu thành khúc hátMẹ ru con giữa rừng.

“Hồ Chủ tịch muôn năm!”Quyết thành câu khai báoKhi bị giặc khảo tra.Cũng là lời trăn trốiKhi sắp sửa lìa đời.

Bao năm trời khói lửaChỉ mong có mặt ngàyBác vào thăm Nam Bộ.Nước reo vui Đổng Nai.

Vinh quanh thay anh thợ sơnNgày giải phóng Sài GònTrèo lên cổng thành phốTô vàng son năm chữ“Thành phố Hồ Chí Minh”.

Lời bình: 

Bài thơ thể hiện tình cảm kính yêu sâu sắc của đồng bào Nam Bộ đối với Bác Hồ. Hình ảnh Bác hiện lên giản dị nhưng vô cùng vĩ đại, là nguồn động viên tinh thần to lớn cho cuộc kháng chiến của miền Nam.

6/ Du kích Đồng Nai

Chiến khu Đ có từ thuở ấyCó một anh đồng chíSau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươiĐưa chi bộ về rừng Đồng NaiLập chiến khu nuôi chí lớn.

Nước ngọt, dân thương, rừng rộngTiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tềBạn với núi rừng, trái cam, măng le.

Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:Thuyền Hít-le chìm đắm.Biển Liên Xô sóng đỏ dâng tràoPháp mở cửa Đông Dương quỳ gốiRước Nhật vàoHơn hai triệu đồng bào chết đói…Chi đội vũ trang mới tròn tiểu độiCơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.Phải chống nguỵ, tề bố ráp ngày đêmSuất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thứcMỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng…

Bỗng một chiều sươngGió thu đang tơ vàng lá cám.Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm.Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son.Lá cờ sonTay anh hé mờLệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ.Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình.

Đọc truyền đơn như đọc bức thư tìnhTừng chữ một đánh vần đến thuộcChiến khu xanh đêm vui đỏ đuốcSuối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điềuMua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánhNhư tim vàng ngự giữa lòng son.Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng TámChiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưngÁo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.

Những tròng mắt bừng bừng ánh lửaGót chân chai giậm vỡ nhựa đường.Cờ đỏ sao vàngĐã ngập trời Nam Bộ:Những đoàn người như thác đổTiếng hò reo đất lở nghiêng trờiBọn giặc Nhật rụng rờiQuỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh

Người du kích Đồng Nai gác toà thị sảnhNgỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.

Lời bình: 

Du kích Đồng Nai khắc họa hình ảnh những người du kích kiên cường, gan dạ, bền bỉ trong cuộc chiến. Bài thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm và ý chí sắt đá của những người lính Đồng Nai, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng.

Ngoài Nhớ Bắc thì Du kích Đồng Nai cũng là đáp án hàng đầu cho thắc mắc Huỳnh Văn Nghệ là tác giả của bài thơ nào.

7/ Bên bờ sông xanh

Bờ sông xanh chiều hôm nay buộc ngựa,Kiếm gối đầu theo gió thả hồn caoThơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu,Lòng tôi đây, cũng vui sầu như bạn.Tôi cũng biết nhớ thương, tơ tưởng.Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân,Tôi là người lăn lóc trên đường trần,Không phân biệt lúc mài gươm, múa bút.Đời chiến sĩ máu hòa lệ, mựcCòn yêu thương là chiến đấu không thôiSuốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôiThì không lẽ bút phải chờ kiếp khácTrên lưng ngựa múa gươm vừa ca hátLòng ta say chiến trận đến thành thơMáu quân thù chảy đỏ quê hương taCòn có vần thơ nào hay hơn nữaBạn đừng ngại vì người thơ mê ngủQuên cuộc đời, tìm mộng để làm thơBạn đừng lo tôi say máu quân thùQuên ghi chép những vần thơ huyền diệuCó chiến đấu thơ mới thêm vần điệuCàng hát ca, gươm càng sắc bén thêmNợ kiếm cung, nghiên bút, biết sao đềnNếu không biết vừa làm thơ, giết giặc.Gửi lại bạn những vần thơ trên cátVà giờ đây tôi qua bến, lên đường.

Lời bình: 

Bên bờ sông xanh là bài thơ giàu cảm xúc, phản ánh niềm hy vọng về một tương lai hòa bình, tươi sáng cho dân tộc. Tác giả sử dụng hình ảnh dòng sông và bến bờ như ẩn dụ cho cuộc hành trình gian khổ nhưng đầy hứa hẹn của cách mạng.

Tác phẩm tiêu biểu của Huỳnh Văn NghệBên bờ sông xanh

8/ Bến cũ

Đây bến cũ chốn muôn thuyền đợi gióBuồm phập phồng như phổi nhịp bên hôngNeo buông sâu như những sợi tơ lòngThuyền lớn, nhỏ toàn chứa đầy hy vọng.

Trời quang đãng mây đen vừa tan bóngThuyền sắp đi, bến đã động lòng thươngAi phăng neo vội vã để đoạn trường!Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.

Thuyền lớn nhỏ toàn chứa đầy hy vọngTrời xa khơi màu hứa hẹn xanh xanhThuyền ra đi, chim bể báo tin lànhBến ngậm lệ đành để thuyền vượt sóng.

Rồi từ đấy bến xưa hằng mong ngóng.Cây đa già lá rụng đã bao phenNhưng biệt mù khơi, nào thấy bóng thuyền,Những thuyền xưa cùng nhau đi đuổi mộng

Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.Chở về đây những mộng đẹp xa xôi!Lưu luyến chi bến lạ chốn quên ngườiĐể bến tưởng thuyền xưa đà lạc hướng.

Lời bình: 

Bến cũ là một trong các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ chứa đựng nỗi nhớ thương và hoài niệm về những kỷ niệm xưa, khi bến nước còn là nơi chứng kiến nhiều câu chuyện buồn vui. Tình cảm hoài hương và mong muốn trở lại những ngày tháng bình yên được thể hiện qua từng câu chữ.

9/ Đường về

Xe cũ quá kêu vang trên đường sắt,Núi sầu che, mút mắt núi sầu che.Xe chở lòng hay lòng đã chở xe?Nghe ngóng quá, lòng ơi sao nặng quá!

Phải ta cứ ở nhà mơ ước nữa,Đi làm chi mà về với đau thương.Máu đào tuôn, cứ để máu đào tuônTrên đường ấy để lần sau tránh bước.

Ôi đau đớn! Chưa đi đà biết trước:Bước lên đường là tan một giấc mơ.Đi gặp nhau để hết nhớ mong chờ,Tình thú vị chỉ trong thơ qua lại.

Đã lỡ bước, nên đến không muốn thấyNhác trông cây không trái với không chim.Để tìm gì trong bạn chút phần timNgười đã hứa tặng ta từ xa cách.

Nào đâu những hoa vàng chào chim khách,Tấm khăn tình phơ phất đón sân ga.Đâu môi duyên cười đón bạn phương xaVà lòng mở, tim run, tay siết chặt?

Ta chỉ gặp lạnh lùng trong giếng mắtTrên đường về xe gầm thét kêu thương…Ta lặng yên, nén lệ, ngắm mây ngàn.

Lời bình: 

Đường về phản ánh tâm trạng của người lính sau chiến tranh, trên con đường trở về quê hương. Đó là con đường đầy kỷ niệm, khơi dậy bao cảm xúc, từ niềm tự hào về chiến thắng đến nỗi buồn về sự mất mát trong cuộc chiến.

10/ Em bé liên lạc

Nhà em ở xóm Cây DâuTrước kia ở đợ giữ trâu cho ngườiNay em đánh giặc được rồiMột mình bảo đảm thơ từ qua sôngNgày đêm nước lớn, nước ròngEm ôm thân chuối bơi không cần thuyền.Mẹ em ngồi đứng không yênThương em thù giặc, ngày đêm phập phồngNghe từng loạt súng bờ sôngMà nghe như đạn xé lòng, xé gan.

Quân thù vừa tóm được emMẹ lăn vào bót xin đem em về“Nó chăn trâu bắt làm gìNó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà…”

Ba ngày bị đánh, bị traMắt lồi, má tím, máu trào môi đenMẹ em cũng hết lời khuyên:“Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồiThà rằng con sống mồ côiCòn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”Lắc đầu em cố nói “không”

Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười.Hôm sau dòng nước Đồng NaiĐưa ra biển cả một thây không đầu.Mẹ em, chị Sáu Cây DâuXin đi bộ đội trả thù cho con.

Lời bình: 

Em bé liên lạc là tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ ca ngợi lòng dũng cảm của các em nhỏ tham gia kháng chiến. Với những hình ảnh sinh động và tình cảm, tác giả khắc họa vai trò quan trọng của các em trong việc truyền tin, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

11/ Hành quân

Đoàn quân đi như thân rắn uốnQuanh đồi, qua suối, qua đồng,Qua xóm làng như dải lụa cong congÊm như dòng nước.Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt.Đếm hoài chưa hết đoàn quân.Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân,Cành lá nguỵ trang múa reo trên mũ áo.Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa,Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng.Chiếc nồi đồng há miệng thênh thangNhư buồn ngủ ngáp dài vô tận.Thương anh trinh – liên suốt ngày lận đậnChạy như thoi gác trước canh sau.Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu.Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc.Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc,Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn,Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngangLưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉThương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thởLưng nặng oằn chân bước mãi không than.Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chânCả ngựa lẫn người cong lưng uống nước.Thương đồng chí chỉ huyTới giờ đi rút vội điếu thuốcThương cả đoàn quân đi dưới nắng mưaÁo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt,Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắtNương áo nhau lần bước đêm rừng.Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chânNhưng chị cứu thương đến đâuNghe cười tràn đến đó.Cũng có người vừa đi vừa mớ.Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ:“Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro,Xung phong ra đường vung cao mã tấu.”Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ:“Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”.“Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”

Bận trở về được đi đường tắt.Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt.Giày đinh thu được rộng chật cứ mangVang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng,Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng.

Lời bình: 

Hành quân miêu tả cuộc hành quân gian khổ nhưng tràn đầy quyết tâm của những người lính. Hình ảnh đoàn quân lặng lẽ tiến về phía trước trong sự hùng tráng và niềm tin sắt đá đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.

12/ Nấm mộ giữa rừng

Đêm thao thức bên lò lựu đạnNgày say sưa quay máy tiện, máy bào.Quá sức, ốm đauChén thuốc rễ cây rừng không cứu được.

Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốcChôn anh, chiếu rách bó thân gầy.Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày.Chức vụ, họ tên, quê quán.

Nhưng mới ba mùa mưa, nắng.Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng.Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”.Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả.

Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả?Mộ bia đành không ghi giữ được lâu.Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu.

Lời bình: 

Nấm mộ giữa rừng là một trong những bài thơ hay của Huỳnh Văn Nghệ nói về sự hy sinh thầm lặng của những người lính. Hình ảnh nấm mộ giữa rừng như một biểu tượng cho sự mất mát, đồng thời nhắc nhở về những giá trị thiêng liêng mà họ đã cống hiến cho Tổ quốc.

13/ Ngày hội

Biên Hoà đã mấtChiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao.Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hàoĐêm tập một, hai vang trường Đất CuốcGià, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hátTiến quân ca.Anh Nguyễn Bình cũng đã về đâyXem địa thế thấy sông dài rừng thẳmTình quân dân đầm ấmAnh xuống ngựa buộc cươngĐồng bào mừng, thầm gọi “ông Trung ương”.“Của Bác Hồ gửi cho Nam Bộ”

Lạc An bỗng tưng bừng ngày hộiKéo về đây đến bốn, năm chi độiKim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa,Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưaBỗng lớn lên như Phù Đổng.Xóm thôn rộn ràng cờ, trốngChim rừng hốt hoảngTìm cành cao nhất đứng nhìn nhau.

Giữa rừng vang từng nhịp búa thầuCủa binh công xưởng đầu tiên làm lựu đạn.Đáy sông xanh cũng xôn xao mây trắngThuyền ngược xuôi gạo, muối, giọng hò.

Phố Biên Hoa thị xã mến yêuChiến sĩ Lạc An yêu giấc ngủ.

Lời bình: 

Ngày hội thể hiện niềm vui chiến thắng và sự đoàn kết của nhân dân trong ngày hội lớn của dân tộc. Tác giả đã khắc họa không khí tưng bừng, hân hoan của ngày hội chiến thắng, mang lại niềm tin và hy vọng về một tương lai tốt đẹp.

14/ Rừng đẹp

Rừng đẹp như một bài thơ cổCành cao vượn húRíu rít tổ chim.Bờ suối đỏ hoa simThảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.Đêm trăng một người một ngựaLỏng cương cho gió ráo mồ hôi.

Hội nghị giữa trờiChim, lá cũng góp lời góp ý.Mắc võng cây này qua cây ấyCủi khô lửa cháy ấm đêm đông.

Tắm, ăn nước suối một giòng.Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.Củ mì luộc chia đôi chấm muốiMặn bùi tình nghĩa anh em.Cửa mở suốt đêmDoanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ

Chung một mái tranhCởi mở tâm tìnhRách lành manh áo che thânKhông phân biệt nhân dân, cán bộ.

Rồi những chiều nào đóKháng chiến thành côngGiữa cảnh ngựa xe thành phốGặp lại bạn bè hay với con, với vợNgồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏTình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.

Lời bình: 

Rừng đẹp là bài thơ tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ, thể hiện tình yêu của tác giả với quê hương, đất nước. Cảnh đẹp của rừng không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn gợi lên hình ảnh về sức mạnh và sự kiên cường của nhân dân trong kháng chiến.

15/ Trở về

Mây hường vương trước ngõTiếng sáo trỗi mơ màngHương đào đâu phương phấtChập chờn mấy cánh loan.

Thiên thai là nơi đâyNơi nữ tiên hò hẹnNơi xưa nàng đưa tiễnNgày ta quyết xuống trần.

Thơ ta đề cửa sổNét chữ vẫn chưa phaiGhi mối tình muôn thuởTrần tục với bồng lai.

Gót ngọc ai dần đếnRèm châu nhẹ vén lên“Ôi nàng tiên yêu mếnAnh đây rồi nhớ, quên?”

Áo lam, quần lụa trắngKhăn ngà, đôi dõn sonHai mẹ con bước thoảngÊm ái như đôi hồn.

Không ai nghe lời taNàng không đoái nhìn taCả lòng ta sụp đổNgười đi qua hững hờ.

Mây hường tan trước ngõTiếng sáo dứt bao giờBầy loan theo nàng biếnCòn mình ta bơ vơ.

Thoảng hương thừa tơ tócNhắc tình ấm ngày xưaRưng rưng hàng lệ ngọcNàng ơi, ta đâu ngờ!

Ta nhầm nàng sao đượcNgày xưa trong tay nhau.Giống ta từng nét mặtCon ta, ta quên nào!

Quay nhìn vào gương cũ:Ta đã chết đi rồi!Bị trần gian bao phủMấy lớp đời tanh hôi.

Trán nhăn buồn nhân loạiMắt sâu sầu thế gianMáu thù chưa rửa sạchĐôi bàn tay gian nan.

Nợ trần đâu đã trảBao năm sống với đờiTình thương lòng tràn ngậpTôi nào kể chi tôi.

Dưới tầng mây dày đặcĐưa lên tận lòng tôiLời oán hờn u uấtTiếng thở than ngàn đời.

Vung kiếm tan lầu ngọcVội chắp cánh về trần.Tôi giật mình tỉnh giấcSung sướng giữa ngàn xuân.

Lời bình: 

Trở về là bài thơ đầy xúc cảm của Huỳnh Văn Nghệ khi trở lại quê hương sau chiến tranh. Bài thơ phản ánh tâm trạng vừa vui mừng vì đất nước hòa bình, vừa trầm lắng nhớ về những người đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Lời kết

Tuyển tập các bài thơ Huỳnh Văn Nghệ hay nhất đã được tổng hợp trong bài viết. Là một trong những nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, phong cách sáng tác của Huỳnh Văn Nghệ rất lạ, vừa hồn hậu vừa mạnh mẽ ngang tàng.